Tôi không phải
sinh ra ở Hà Nội, nhưng Hà Nội đã để lại nhiều kỷ niệm và dấu ấn trong cuộc đời
tôi. Tháng 12 năm 1978 ba mẹ gữi tôi ra Hà Nội nhờ O, Dượng để học thi đại học.
Thời đó đi lại cực kỳ khó khăn. Tôi bị chóng mặt nên không thể đi xe ô tô được.
Ba tôi không mua được vé tàu, đành gữi tôi cho nhân viên lái tàu. Đó là một
đoàn tàu chở hàng. Được ngồi ở khoang lái tàu, đó là lần đầu tiên tôi được ngồi
tàu lửa. Đầu máy chạy bằng dầu diazel. Mùi dầu phủ kín trong buồng lái. Tôi ngồi
bên cạnh người lái tàu. Đầu máy nặng nề nghiêng qua, nghiêng lại cứ tưởng nó
trượt ra ngoài đường ray. Đoàn tàu chạy qua nhiều tỉnh và thành phố rồi đến Hà
Nội.
Khoãng 12 giờ
đêm tàu vào ga. Đêm đó trời se lạnh, trên sân ga nhiều đoàn tàu vào ra. Tiếng
còi tàu nghe não nùng. Trời tối khua, lạnh tôi không về nhà O, Dượng ở Gia Lâm
được đành phải ở lại nhà ga. Lần đầu tiên phải xa nhà nên rất nhớ nhà, nhớ cha
mẹ, các em trào dâng. Tôi cứ thức mãi đến sáng mới mang ba lô ra khỏi nhà ga, bắt
xe về cầu Long Biên. Cảnh phố phường thật đông vui, nhiều nhà to và có lầu. Đến
cầu tôi phải đi bộ trên cầu để qua Gia Lâm. Cầu Long Biên là cầu bằng sắt, Pháp
xây cách đây hơn 100 năm. Cầu dài hơn 2 km. Nơi đây đã chứng kiến hai cuộc chiến
tranh chống Pháp và Mỹ. Những trận bom dội xuống nhằm phá hủy cầu, nhưng nó vẫn
anh dũng đứng vững sau chiến tranh. Sau khi qua cầu, đi theo đê Sông Hồng rồi
tôi cũng đến được Học Viện Hậu Cần – nơi O, Dượng tôi sống và làm việc ở đó.
Sau khi xuống
đê, đi dọc theo đường làng có hai hàng tre tôi hỏi thăm nhà O ở đâu? Họ chỉ tôi
ra chổ O làm việc thế là O dẫn tôi về nhà. Đó là một phòng(nhà) trong nhà tập
thể. Phòng tuy chật nhưng cũng đặt được 3 chiếc giường. Trong nhà có nhiều vật
dụng mà ở quê không có. Tôi được gia đình O, Dượng tiếp đón như những thành
viên trong gia đình. Những ngày sau đó tôi và chị Nga làm thủ tục nhập học ở
trường Đại Học Nông Nghiệp I. Chúng tôi phải đi xe đạp mười mấy cây số để đến
trường và ở nhà trọ một tuần mới về nhà. Ăn cơm tập thể, tiền ăn, ở, học của
hai chúng tôi O lo hết. Cuộc đời tôi bắt đầu sống xa gia đình, bước vào cuộc sống
tập thể từ đó.
Giữa năm 1979
O, Dượng được cấp ngôi nhà dành cho sĩ quan ở 12 A Lý Nam Đế. Ngôi nhà là niềm
ước mơ của bao người. Nằm sát Thành Hà Nội, gần chợ Đồng Xuân, Lăng Bác. Nhà có
diện tích 150 m2 nhưng sao hồi đó tôi cảm tưởng rộng lắm. So với nhà cũ ở Học
Viện Hậu Cần là cả một trời vực.
Năm 1979 tôi
đã là lưu học sinh chuẩn bị đi du học nước ngoài. Hai năm được ở gần gia đình
O, Dượng, được sự chăm sóc giáo dục trực tiếp của O, Dượng, tôi trưởng thành rỏ
rệt. Cứ tuần nào chủ nhật ghé về nhà O nấu bữa ăn ngon. Món thịt vịt nấu măng
ăn với bún, rau sống, thỉnh thoãng nấu canh chua cá, có bia hơi. Đó là những
món ăn mà chúng tôi hồi ở quê cũng không bao giờ dám mơ tưởng.
Chỉ hai năm sống
và học tập ở Hà Nội nhưng đã ghi trong tâm trí tôi nhiều dấu ấn. Tôi ngạc nhiên
tại sao trên đất nước Việt Nam vừa kết thúc chiến tranh ác liệt lại có một
thành phố lớn, đẹp, mức sống cao so với nông thôn như vậy. Cảm nhận của tôi là
vùng quê tôi Quảng Bình quá vất vã, cơ cực. Người dân một nắng hai sương mà vẫn
luôn đói, lạc hậu. Khí hậu thiên nhiên khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi.
Tôi đã chiêm
ngưỡng hầu như tất cả những danh lam thắng cảnh của Hà Nội. Đó là Hồ Gươm, Chợ
Đồng Xuân, Hồ Tây, Vườn Bách Thảo, Lăng Bác, Quãng Trường Ba Đình, được đi trên
những con đường rợp bóng cây xanh, được chiêm ngưỡng mùi hoa sữa nồng nàn. Hà Nội
có nhiều công viên, năm cửa ô, 36 phố phường…Hình ảnh thủ đô được thể hiện một
phần trong bài hát “Hà Nội niềm tin và hy vọng có đoạn”:
Mặt hồ gươm vẫn
lung linh mây trời
Càng toả ngát hương thơm hoa Thủ đô.
Đường lộng gió thênh thang năm cửa ô.
Nghe tiếng cười không quên niềm thương đau.
Hà Nội đó, niềm tin yêu hy vọng
Của núi sông hôm nay và mai sau…
Càng toả ngát hương thơm hoa Thủ đô.
Đường lộng gió thênh thang năm cửa ô.
Nghe tiếng cười không quên niềm thương đau.
Hà Nội đó, niềm tin yêu hy vọng
Của núi sông hôm nay và mai sau…
Thời đó Hà Nội
còn tàu điện. “Tiếng leng keng tàu sớm khua”
như trong một bài hát về Hà Nội gợi nhớ một thời những con tàu cần mẫn
đó. Người Hà Nội ăn diện đẹp. Với bốn mùa trong năm, trang phục cũng thay đỗi
theo mùa.
Mùa xuân trăm
hoa đua nỡ. Hoa đào kiều diễm và quý tộc nỡ rộ khi mỗi độ xuân sang. Mùa hè hoa
phượng đỏ rực. Mùa thu lá vàng rơi ngập phố, mùi hoa sửa ngào ngạt khắp phố phường.
Đặc biệt mùa đông lạnh giá là lúc các mẫu thời trang được chưng diện trên khắp
đường phố.
Chúng ta tự
hào với thủ đô xinh đẹp, anh hùng với lịch sử 1000 năm Đông Đô Thăng Long Hà Nội.
Thành phố mãi mãi trong trái tim tôi như trong trích đoạn bài “hát về Hà Nội”
Dẫu có đi bốn
phương trời
Lòng vẫn nhớ
về Hà Nội
Hà Nội của
ta, thủ đô yêu dấu
Một thời đạn
bom, một thời hòa bình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét