Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

MÙA HÈ QUẢNG BÌNH




Nhà thơ Tố Hữu có câu thơ:

Chang chang cồn cát
Nắng trưa Quảng Bình.

Nằm giữa đất nước Việt Nam, quê tôi khi mùa hè tới trời nóng như lửa. Sáng sớm lúc Hoàng Hôn chưa lên không khí đã hừng hực nóng. Buổi trưa và chiều là thời gian nắng nhất trong ngày. Nhiệt độ có hôm lên đến 39 – 40 độ C. Chân trần không thể đi trên đường đất được vì nóng bàn chân. Còn trên cát thì khỏi phải nói. Có những buổi trưa chúng tôi phải ngứt một bó cành cây để giậm chân lên, sau đó cầm bó cây đó chạy mấy bước rồi lại để nó xuống đất để giậm lên.
Đặc biệt có thời gian gió Lào trời nóng như thiêu như đốt. Thời gian này gió nóng từ Nước bạn Lào thổi qua, không khí nóng khó chịu lắm. Những ai có dịp ở quê tôi khoảng thời gian này có lẻ không bao giờ quên được.
Mùa hè đầy tiếng ve kêu râm ran báo hiệu một mùa thi đầy vất vã. Hoa phượng đỏ rực khắp mọi nẽo đường. Đặc biệt với học sinh lớp 12. Đó là lúc tạm biệt mái trường thân thương, tạm biệt bạn bè để bước sang một chân trời mới cổng trường đại học. Tạm biệt những năm tháng học trò hồn nhiên nhưng đầy kỷ niệm. Tất cả đều vội vã, vui buồn lẫn lộn, kẻ ở người đi. Đó là thời gian xao động lòng người. Thời gian cho những tiếc nuối không bao giờ trở lại. Thời gian mà những ước mơ hoài bảo sắp thành hiện thực.
Khâm phục nhất là những người dân quê tôi, bán thân cho đất bán lưng cho trời trong thời tiết khắc nghiệt mà vẫn miệt mài trên đồng ruộng. Họ sống lạc quan và làm việc tốt với kỳ vọng ngày mai tươi sáng hơn.

Tôi nhớ những ngày hè nóng bỏng, thường đi liền với mùa gặt lúa, mùa  thu hoạch khoai mì. Những cánh đồng lúa vàng rực một màu trông như một bức tranh khổng lồ vậy. Những gánh thóc, xe lúa nặng hạt được chở về sân Hợp Tác Xã. Nơi đây diễn ra công đoạn tuốt lúa. Trong thời gian này ruộng nương khô hạn. Mẹ tôi đi gặt hay bắt được cá lóc ruộng. Thời đó sao cá lóc nấu với cà chua ngon đến thế. Sau này lớn lên tôi được ăn nhiều món này nhưng không thấy ngon như ngày ấy nữa.
Mùa hè nóng nực là lúc các khúc sông đầy người tắm. Chúng tôi nô đùa nhau thật thỏa thích. Trâu bò cũng tắm với trẻ con chúng tôi. Cảnh người vật trên dòng sông quê thật nhộn nhịp.
Chúng tôi sử dụng hết kỳ nghỉ hè để giúp gia đình. Công việc đồng quê nặng nhọc lắm. Chúng tôi phải làm đủ thứ việc như:  đi gặt, bó, gánh lúa về sân, tuốt lúa, làm những việc khác trong gia đình. Tuy vất vã nhưng rất vui.

Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

BỮA CƠM THỜI CHIẾN




Trong những năm chiến tranh đặc biệt từ năm 1964 đến 1972 lo được bữa cơm hàng ngày là cả một vấn đề lớn. Gia đình tôi chỉ trồng mấy thứ rau quanh nhà. Lúa gạo thì lúc có lúc không. Chủ yếu dựa vào tiếp tế từ miền Bắc và các nước bạn. Món ăn mặn chỉ có muối và nước mắm. Muối không phải lúc nào cũng có sẳn. Còn nước mắm hiếm lắm. Riêng thịt là một cái gì đó quá xa vời. Vài tháng chúng tôi mới có một lạng thịt lợn. Cá cũng thế, bom đạn ngoài biển dân chài không đánh cá được.
Tôi nhớ hồi đó chính sách của nhà nước là tất cả con cái trong gia đình ăn theo mẹ. Có nghĩa là nếu mẹ là cán bộ công nhân viên nhà nước thì con cái có tiêu chuẩn tem phiếu: gạo, thực phẩm, đường, sữa…Ba tôi là giáo viên nhưng mẹ lại thợ may không phải biên chế nhà nước. Đó là một thiệt thòi lớn cho chúng tôi.
Thời gian đó mẹ vừa làm ruộng vừa làm thợ may ở Hợp Tác Xã. Mỗi mùa họ chia cho gia đình tôi chẳng được bao nhiêu lúa. Chúng tôi phải mua  sắn, khoai để ăn độn thêm. Những thứ đó cũng không phải dễ mua. Chỉ lúc vào mùa mới có thể mua được. Gia đình tôi đâu phải có tiền sẳn. Thật khó khăn trăm bề.
Trong nhà có mấy cái chum, tủ đụng thóc nhưng có khi không có gì trong đó. Căng nhất là thời gian giáp hạt. Lúc đó không có gì mà ăn, đói dài. Tôi còn nhớ có nhiều ngày cả nhà phải ăn lá rau má hái ngoài vườn thay cơm. Nếu như ăn thứ đó một vài bữa thì không sao, đằng này ăn liên tục từ ngày này sang ngày khác. Có nhiều hôm phải cắt nhỏ thân cây chuối chắm với muối hay nước mắm ăn qua ngày.
Có những lần chúng tôi sung sướng khi được ăn cơm với vừng hay muối rang trộn với tiêu. Đó là những ngày cảm thấy ấm bụng. Vài tháng gia đình mới giết con gà nuôi để làm thịt. Những lần như vậy coi như là bữa tiệc lớn, hiếm có. Nhà đông người, gà thì nhỏ mọi người chỉ ăn được vài miếng là hết. Thèm thịt, mỡ mà không biết kiếm đâu ra.
Mỗi ngày chỉ ăn hai bữa. Bữa sáng hầu như không bao giờ có. Ruột gan cứ cồn cào. Bữa chính ăn được nữa bụng. Lúc nào ăn hết cơm cũng đói, muốn ăn nữa nhưng không có. Ăn cái gì cũng được miễn là có cái để ăn.
Nhiên liệu để đun nấu cơm cũng khó khăn lắm. Chủ yếu dùng củi, rơm, lá cây. Mùa mưa mọi cái đều ẩm ướt nên nấu được bữa cơm là một việc khó, mất hơn tiếng đồng hồ để nấu cơm, canh. Ngoài việc đi học tôi phải làm mọi việc để giúp gia đình, kể cả nấu ăn.
Bữa cơm chỉ kéo dài trong 10 – 15 phút. Chiến tranh, làm vội vàng, ăn vội vàng, ngũ cũng vội. Những năm tháng đó ăn cái gì cũng ngon. Thức ăn gì cũng thèm. Chính vì lương thực và thực phẩm quá hiếm nên chúng tôi ai cũng xanh xao, gầy yếu. Hầu như mọi người đều như vậy cả. Đó là những bữa cơm tôi không bao giờ quên trong cuộc đời.

Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013

NGỌN ĐÈN DẦU THỜI CHIẾN TRANH




Những năm chiến tranh chống Mỹ, điện sáng chỉ có ở những thành phố lớn nhưng bị cúp thường xuyên. Những năm đó miền Bắc thiếu điện tầm trọng. Vùng nông thôn hầu như không có điện.
Cũng như hầu hết bọn trẻ con khác tôi rất sợ bóng tối. Mỗi khi phải rơi vào bóng tối, tôi thường tưởng tượng đủ điều. Nào là có ma, kẻ trộm, rắn tấn công…Ở quê cây cối nhiều, mỗi khi đêm đến trời tối như mực. Cứ đến 8 giờ tối mọi người đi ngủ. Không gian thật tỉnh lặng, đáng sợ. Đó là lúc bóng tối trùm khắp nơi khiến người ta rùng rợn khi đi trong bóng đêm.
Ngọn đèn dầu không biết có tự bao giờ nhưng khi tôi bắt đầu nhận thức được trên đời thì tôi đã thấy nó. Thân cây đèn dầu quê tôi làm bằng thủy tinh hay kim loại, sau này có loại bằng sứ. Cổ đèn có chụp được gắn với tim đèn. Dầu thắp sáng cây đèn là dầu hôi(hỏa). Đèn thường có ba loại: đèn Hoa Kỳ, đèn Bảo thời gian sau có đèn măng xông. Riêng cây đèn Bảo nó lớn gấp 3 lần đèn Hoa Kỳ. Đèn lớn thường được đốt sáng khi có tiệc hoặc lễ, hội họp.
Cứ tối tối khi hoàng hôn buông xuống chúng tôi bắt đầu đốt đèn. Mỗi nhà thời đó có 2 – 3 cây đèn. Tất cả các công việc làm ban đêm đều nhờ ánh sáng loại đèn này. Ngày đó sau khi ăn cơm xong, nghỉ giãi lao đôi phút chúng tôi ngồi học bên cạnh cây đèn. Do máy bay địch ném bom nên mặc dù ánh sáng đèn nhỏ nhưng chúng tôi phải che kín lại, chỉ để ánh sáng lọt ra ngoài một chút.
Cứ thế đêm đêm những trang sách đi theo ánh sáng đèn như hai người bạn tri kỷ. Có ánh sáng chúng ta nhìn thấy được mọi vật xung quanh, đồng thời nó là chất xúc tác làm cho tinh thần ta phấn khởi, tự tin hơn.
Tôi nhớ có những hôm chúng tôi phải học nhóm, mỗi đứa mang theo cây đèn vui lắm.
Ánh sáng đèn dầu đi vào sách vỡ, cùng hòa quyện với kỷ niệm tuổi thơ. Dưới ánh sáng leo lét này chúng tôi trưởng  thành, lĩnh hội bao kiến thức để bước vào đời. Cây đèn dầu gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trong những năm chiến tranh biết bao nhà máy, bệnh viện… làm việc được nhờ ánh sáng ngọn đèn dầu.
Mãi đến năm 1976 quê tôi mới bắt đầu có điện. Tuy nhiên cho đến tận bây giờ cây đèn dầu vẫn tồn tại trong mỗi một gia đình Việt Nam. Giờ đây nó không đảm nhiệm vai trò thắp sáng nữa nhưng trên bàn thờ đều có cây đèn này. Mỗi khi có đám giỗ hay thờ cúng, ngày mồng một, rằm hàng tháng người ta thường thắp đèn để đốt nhang hay để thờ. Mỗi khi cúp điện, đèn dầu được đốt sáng lên, nó cũng là người bạn của gia đình trong cuộc sống hiện đại ngày nay.

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

HẦM TRÚ ẨN CHỮ A




Những ai sống, chiến đấu trong những năm chiến tranh chống Mỹ chắc không bao giờ quên được chiếc hầm tránh bom hình chữ A. Đó là một cái hầm nằm dưới lòng đất. Người ta đào đất rộng 2.5 m dài 5 m sâu 3 m. Phần chịu lực được làm bằng cây gỗ đường kính chừng 20 cm, mỗi vài hai cây gỗ được ghép lại hình chữ A. Cứ 1-2 m đặt một vài như vậy. Giữa các vài liên kết với nhau bằng những thanh gỗ nhỏ hơn. Sau đó đất được đỗ lên nện cứng. Cửa hầm được thông ra hai đầu.
Trong những năm từ 1964 đến 1972 chiếc hầm là nhà, nơi trú ẩn an tương đối an toàn cho hàng chục triệu người dân miền Bắc và miền Nam. Khi nghe tiếng máy bay, kể cả lúc không có máy bay chúng tôi cứ ở dưới hầm. Mọi sinh hoạt thời chiến đều ở dưới hầm. Đó là những ngày chiến tranh rất ác liệt, cái sống,cái chết gần kề nhưng cũng đầy ắp những kỷ niệm tuổi thơ. Dưới hầm có những thứ cần thiết tối thiểu để sống và làm việc. Giường, chăn, màn, đèn dầu, sách vỡ, dụng cụ nấu ăn, thực phẩm…
Hầm chỉ tránh được những loại bom bi, hay một vài loại bom có sức công phá nhỏ khác. Riêng loại bom tấn thì không thể tránh được.Hầm của gia đình chúng tôi trong tám năm trú ẩn chỉ có mấy lần bom bi địch thả trúng trên hầm. Người dưới hầm không ai bị sát thương cả. Tuy nhiên tôi đã chứng kiến cảnh tan nát của nhiều ngôi hầm sau những đợt oanh kích của máy bay và pháo từ hạm đội địch ngoài biển bắn vào. Nhiều gia đình đã chết hết sau những trận bom. Cảnh tang thương bao trùm làng quê những ngày đó.
Trong hầm ẩm thấp, nhưng ấm cúng, gần gũi và thân thương. Tôi nhớ cứ mỗi lần nấu cơm khói bay lên, đó là lúc máy bay địch dễ nhìn thấy. Chúng tôi phải làm mọi cách để phân tán làn khói nhỏ ra. Hồi đó dân hay đốt lá Rèng mùi thơm thơm. Khói xua muỗi bay ra khỏi hầm. Sau đó chúng tôi mới móc màn. Muỗi dưới hầm nhiều lắm. Mỗi buổi tối ngọn đèn dầu phải để sâu trong hầm không cho ánh sáng lọt ra ngoài làm mồi cho máy bay.
Trong hầm thỉnh thoảng có rắn bò vào. Có những con rắn độc cắn chết người. Vì vậy, mỗi lần xuống hầm chúng tôi phải dùng gậy xua đuổi rắn (nếu có). Đó là động tác an toàn đầu tiên. Căn hầm cũng là nơi bọn trẻ chúng tôi nô đùa thỏa thích. Hầm có nhiều ngõ và vật dụng nên chúng tôi thường chơi trò trốn tìm. Khi tìm được người thật vui. Hầm là nơi tụ họp của toàn bộ thành viên gia đình trong mỗi bữa cơm. Cơm thời chiến đậm bạc nhưng ngon miệng, ấm tình gia đình.
Trong những giờ phút thanh bình hiếm có ba mẹ thường kể chuyện cho chúng tôi nghe. Những mẫu chuyện thật lý thú. Ba mẹ cũng dạy chúng tôi nhiều điều bổ ích từ trong căn hầm. Những đạo lý làm người, phương pháp, cách học, cách nung nấu những ước mơ hoài bảo, khát vọng sống, sự bao dung, độ lượng…
Tuy ác liệt, thiếu thốn, khó khăn nhưng trong hầm vẫn vang lên lời ca tiếng hát. Ba tôi có cái máy Radio quý lắm. Nhờ cái máy này mà chúng tôi liên hệ với thế giới bên ngoài. Từ bản tin chiến sự, tình hình trong nước, nước ngoài, thời tiết, hoặc chương trình ca nhạc… Qua đó khích lệ tinh thần yêu cuộc sống, yêu gia đình, cha mẹ, tinh thần chống giặc ngoại xâm, khí phách dân tộc…
Có lẽ chúng tôi và rất nhiều người khác may mắn sống đến ngày hôm nay cũng là nhờ chiếc hầm trú ẩn ngày đó. Những chiếc hầm mang theo sức sống mãnh liệt, vượt qua mọi bom đạn hiểm nguy. Đó là nơi ghi nhiều dấu ấn kỷ niệm thời thơ ấu, thời chiến tranh rực lửa bom đạn nhưng chan chứa tình người.

Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2013

THỜI THƠ ẤU 07 - 11 TUỔI


 
Năm 7(năm 1968) tuổi tôi lên lớp một. Trường học gồm một số lớp. Vẫn là nhà tranh vắt đất. Chúng tôi học ngày lẫn đêm. Nếu ngày nào máy bay địch bắn phá nhiều quá thì chúng tôi học ban đêm. Ánh sáng là ngọn đèn dầu. Lên cấp I chúng tôi có nhiều lớp học hơn. Không như hồi học mẫu giáo. Trường nằm ở cầu máng xung quanh có một ít nhà dân và cánh đồng. Từ nhà tôi đến trường học phải đi qua xóm Đức Hoa sau đó đi qua một cánh đồng rồi đến trường học. Hồi đó sách vỡ hiếm lắm. Sách thì dùng toàn sách cũ,  giấy vỡ thì đen, bút mực cũng hiếm nữa.
Nắm 1968 chiến tranh ở miền bắc ác liệt.  Đặc biệt là vùng chiến tuyến Quảng Bình. Hầu như  ngày đêm nào cũng có máy bay địch oanh tạc. Dịp này trẻ con có lệnh di tản đi tản cư ở một số tỉnh phía ngoài như: Thanh Hóa, Ninh bình… Chiến dịch này gọi là chiến dịch Ca 8. Hầu như trẻ con từ lứa tuổi tôi trở lên đều có lệnh đi tản cư. Tôi cũng có diện phải di dời. Đêm trước ngày đi cả gia đình tôi phải ở dưới hầm. Đêm đó chương trình ca nhạc của Đài tiếng nói Việt Nam phát đi bài hát Bên Bờ Hiền Lương. Bài hát nghe thật tình cảm, nhưng vẫn có cái gì đó day dứt lòng người bởi sự chia cắt của đất nước, bởi cuộc chiến tranh đang hoành hoành trên đất nước này. Thỉnh thoảng lời bài hát bị ngắt quãng bởi những loạt bom rơi và tiếng xé gào của tiếng máy bay Mỹ. Sau đó chuyển sang bài hát  Bài Ca Hy Vọng có đoạn“từng đôi chim bay đi, tiếng ca rộn ràng” mang đến một mùa xuân tươi mát, một sức sống mãnh liệt từ sự tàn khốc của chiến tranh. Bài hát nhắn nhủ gữi niềm tin chiến thắng cho Miền Nam thân thương đang chịu ách đô hộ của quân thù. Sau đó bài Hát Quảng Bình Quê Ta Ơi của nhạc sĩ Hoàng Vân, càng nghe càng tự hào với truyền thống đánh giặc và xây dựng của quê hương.   
Ngày mai tôi nằm trong danh sách phải đi sơ tán ra Nghệ An hay Thanh Hóa gì đó. Đêm nay dưới hầm trú ẩn ba mẹ tôi làm con gà mà gia đình tôi nuôi dành dụm mãi mới có cơ hội giết thịt. ba mẹ tôi sợ tôi đi tản cư lúc quá nhỏ mà phải chịu đựng mọi thứ thì khổ. Sợ ở nhà người ta, không biết họ đối xử thế nào. Sợ bom đạn chiến tranh biết đâu đi không trở về. Mẹ cứ ôm tôi mà khóc trong lòng không muốn con rời xa mẹ. Tôi nhớ mãi hình ảnh đó nó cứ theo tôi trong suốt quãng thời gian sau này, cho đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Chính vì quá thương con và lo lắng đủ điều nên sáng sớm hôm sau khi cả đoàn tập trung để đi mẹ tôi quyết định không cho tôi đi nữa. Mẹ tôi nói rằng nếu có mệnh hệ gì thì cả gia đình cùng chịu. Tôi nghỉ đó là quyết định đúng đắn. Ngày ấy tôi thân hình nhỏ con vì ăn uống thiếu thốn, suy nghỉ còn dại. Tôi cũng rất sợ phải xa bố mẹ và mừng vì tôi không phải xa gia đình trong hoàn cảnh như thế này.
Hồi đó nhà mái tranh, vắt đất cửa chống , sập lại mỗi khi đóng. Nhà nền đất, sân cũng nền đất  nên mỗi khi mưa xuống thật là lầy lội. những đợt mưa dài ngày càng làm cho làng quê chiến tranh nằm trong hiu quạnh và chết chóc. Ngày 02 tháng 09 năm 1969 diễn ra sự kiện đáng nhớ. Hôm đó là một ngày âm u. Ở khắp nẻo đường đều loan tin Bác Hồ đã mất. Đài tiếng nói Việt Nam thông báo hàng phút sự kiện này. Chúng tôi cùng những đứa trẻ trong làng chạy đến nhà hội trường xóm Đức Hoa. Tại đây đặt một cái bàn rất rộng trên bàn có trãi tấm vải màu đỏ trang nghiêm, Một tấm ảnh Bác Hồ đặt chính giữa bàn, xung quanh có nhiều vòng hoa. Các chú các cô trong ban lễ tang mặc áo đen cứ đi đi lại lại thật tất bật. Một khung cảnh buồn, thương tiếc Bác vô bờ bến. Lễ quốc tang kéo dài trong nhiều ngày. Hàng loạt bài về Bác Hồ được truyền đi càng làm tăng thêm lòng thương tiếc Bác. Những ngày này mọi người lớn đều rất buồn, có nhiều người khóc. Chúng tôi mặc dù còn trẻ con, nhận thức lúc đó cũng chưa sâu nhưng cũng buồn theo. Ngày ấy chúng tôi cũng đã biết được công lao và đức hạnh của Bác. Nhiều đứa trẻ con thấy người lớn khóc cũng khóc theo. Thế rồi những ngày buồn bã đó qua đi, cuộc sống cứ phải tiếp diễn.
Năm tôi lên lớp bốn  thì cha tôi đã chuyển về dạy trường làng. Năm đó tôi được học với cha. Tuy học với cha nhưng ông rất nghiêm khắc. Trường chuyển ra Đồi Giao Tế. Đó là một cái đồi thấp rất nhiều sỏi đỏ. Cứ mỗi buổi tối sau khi ăn tối xong chúng tôi phải ngồi vào bàn tự học. Ở làng quê cứ 7 giờ tối là im lặng trừ những lúc tiếng máy bay và tiếng bom đạn. Thế mà giờ tự học đến khua 9 giờ mới được đi ngủ. Có những tháng ngày mùa đông rét giá, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm chúng tôi vẫn phải ngồi học. Ngày đó chúng tôi đã biết phải học thế nào. Cách học là phải ôn lại bài cũ và đọc qua bài chuẩn bị học ngày mai.

Năm 1972(11 tuổi) tôi đang học lớp 5. Năm đó xẩy ra nhiều sự kiện lịch sử. Năm quân và dân ta chuẩn bị chiến dịch đánh Quảng Trị. Lệnh tổng động viên được ban hành. Tất cả đổ dồn ra mặt trận. Những chàng trai cô gái tuổi mười tám đôi mươi hành quân ra mặt trận. Quảng Bình là nơi trung chuyển quân. Những người lính trẻ hành quân qua làng tôi chỉ nghỉ lại ít hôm rồi ra trận. Mặt trận Quảng Trị cách đây chỉ 100 km. Nhà tôi tuy nhỏ nhưng cũng cho các chiến sĩ ngủ lại. Tôi nhớ có những chú mặt non choẹt thường nhờ mẹ tôi vá áo. Trong những hoàn cảnh như vậy mẹ tôi thường làm giúp không lấy tiền. Các chú thường trả ơn bằng những lon sữa, hoặc lon thịt, bánh lương khô. Nhiều chú sau khi vào Nam được 01 tuần lại phải quay ra vì bị thương. Có nhiều chú đã hy sinh. Năm đó ta đánh lớn ở Thành Cổ Quảng Trị. Quảng Trị đã hoàn thoàn giãi phóng. Tuy nhiên để giữ lấy vùng giãi phóng quân ta hy sinh rất nhiều. Quảng Trị mãnh đất tuy nhỏ nhưng phải chịu đựng một khối lượng đạn bom khổng lồ. Riêng thị xã và Thành Cổ Quảng Trị phải chịu một khối lượng đạn bom bằng 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã thả xuống thành phố Hirôshima Nhật Bản.
Chiến tranh ác liệt. Chúng tôi lại được lệnh đi sơ tán. Đợt đi sơ tán này được mang tên Ca 9. Ba tôi được trên giao nhiệm vụ đi trông coi một đoàn. Gia đình tôi đi 03 người. Ba tôi, tôi và chú Thiện. 04 giờ sáng chúng tôi đã lên đường. Cuộc hành trình đầy gian khổ và nguy hiểm. Chúng tôi phải đi qua rất nhiều làng xã và huyện mới đến được nơi tản cư. Đi bộ và chạy qua những nơi có bom nổ chậm, hàng trăm quả bom nằm trên đường, máy bay địch thì oanh tạc. Ba tôi có mang theo một chiếc xe đạp, một cái ba lô đựng tư trang hành lý. Đêm đầu tiên chúng tôi ngủ tại một làng thuộc huyện Bố Trạch. Ngôi làng nằm ở  ngay trên đường Quốc lộ 1. Mặc dù chiến tranh tàn phá nhiều năm song cây cối vẫn còn rất nhiều và vẫn rất xanh tươi. Hình như nơi đó rất gần đèo Lý Hòa. Đêm đó chúng tôi ăn cơm xong thì ngủ sớm ở nhờ nhà dân. Trong chiến tranh, cho nhau ở nhờ là chuyện rất thường tình. May sao trong đêm máy bay rất ít dội bom. Sáng hôm sau chúng tôi xuất phát sớm. Trời đang còn tối đoàn người đã lên đường. Trời sáng dần, đoàn người đi qua những bãi đất đầy hố  bom còn mùi thuốc nổ. Tôi còn nhớ chúng tôi đi qua vùng địa danh Ba Trại. Nơi rất nhiều đạn bom giặc Mỹ ném xuống. Bom bi nằm dày đặc trên đường. Chỉ có một lối mòn rất nhỏ đã được dọn sạch bom để đi. Những ngày đó thật nắng dữ dội. Chúng tôi phải chạy trên quãng đường này để tránh máy bay.
Chiều tối chúng tôi đến một làng với những ngôi nhà lác đác giữa đại ngàn. Hoàng hôn buông xuống tạo thành bức tranh tuyệt đẹp. Những cây trúc, cây tre ánh lên dịu dàng. Làng nhỏ này có con sông chảy qua. Con nước mang nặng phù sa chảy về xuôi. Chúng tôi sang sông và ngủ lại ở ngôi làng xinh đẹp này. Sau này tôi mới biết đó là một xã thuộc huyện Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình. Sáng hôm sau từ lúc còn rất sớm chúng tôi đã lên đường. Ba tôi bị đau chân nên đi sau đoàn. Ba dắt xe đạp chở ba lô và các vật dụng khác, còn tôi cõng chú Thiện. Nó mập nên cũng nặng nề. Ba tôi đi cà nhắc, chúng tôi di chuyển từ đoạn này qua đoạn khác. Đường là con đường mòn, nhỏ, quanh co rất dễ thương. Đường trong rừng rậm, thỉnh thoãng mới gặp một vài người dân công. Thỉnh thoãng tôi thấy heo rừng và nghe nhiều tiếng chim hót, tiếng thú gầm. Tôi sợ lắm nhưng cũng cố gắng tỏ ra bình thường. Đi mãi, đi mãi rồi chúng tôi cũng tới được một làng quê miền núi có nhiều hang động, núi cao bao phủ. Đó là nơi ở di tản của đoàn chúng tôi.
Chúng tôi ở nhờ nhà của 1 cán bộ xã. Nhà tranh vắt đất. Ăn bột sắn trộn với ngô người địa phương gọi là Bồi. 4 giờ sáng người dân đã dậy giã bồi. tiếng chày nghe thích lắm. Tôi được nhiệm vụ đi chăn trâu cho gia chủ. Một con trâu thật to, béo tốt. Hàng ngày tôi cưỡi trâu vào rừng râu rồi ràng nó lại. Buổi chiều vào núi dắt về.  
Chúng tôi đi tản cư ở huyện Minh Hóa Quảng Bình này được vài tháng thì diễn ra trận Điện Biên Phủ trên không và hiệp Định hòa bình Pari  được ký kết. Đoàn sơ tán được lệnh trở về quê. Sau mấy tháng xa quê, xa mẹ, các em, khi trở về mọi người mừng khôn xiết. Tất cả còn nguyên vẹn. Em Hồng lên bảy, Vân lên năm, chú Thiện lớn lên nhiều còn Thủy mới sinh được mấy tháng. Cả gia đình sum họp. Miền Bắc đã được hòa bình. Từ đây chấm dứt cảnh máy bay Mỹ ném bom. Cả miền Bắc bắt tay xây dựng tái thiết quê hương.