Năm 7(năm
1968) tuổi tôi lên lớp một. Trường học gồm một số lớp. Vẫn là nhà tranh vắt đất.
Chúng tôi học ngày lẫn đêm. Nếu ngày nào máy bay địch bắn phá nhiều quá thì
chúng tôi học ban đêm. Ánh sáng là ngọn đèn dầu. Lên cấp I chúng tôi có nhiều lớp
học hơn. Không như hồi học mẫu giáo. Trường nằm ở cầu máng xung quanh có một ít
nhà dân và cánh đồng. Từ nhà tôi đến trường học phải đi qua xóm Đức Hoa sau đó
đi qua một cánh đồng rồi đến trường học. Hồi đó sách vỡ hiếm lắm. Sách thì dùng
toàn sách cũ, giấy vỡ thì đen, bút mực
cũng hiếm nữa.
Nắm 1968
chiến tranh ở miền bắc ác liệt. Đặc biệt
là vùng chiến tuyến Quảng Bình. Hầu như
ngày đêm nào cũng có máy bay địch oanh tạc. Dịp này trẻ con có lệnh di tản
đi tản cư ở một số tỉnh phía ngoài như: Thanh Hóa, Ninh bình… Chiến dịch này gọi
là chiến dịch Ca 8. Hầu như trẻ con từ lứa tuổi tôi trở lên đều có lệnh đi tản
cư. Tôi cũng có diện phải di dời. Đêm trước ngày đi cả gia đình tôi phải ở dưới
hầm. Đêm đó chương trình ca nhạc của Đài tiếng nói Việt Nam phát đi bài hát Bên
Bờ Hiền Lương. Bài hát nghe thật tình cảm, nhưng vẫn có cái gì đó day dứt lòng
người bởi sự chia cắt của đất nước, bởi cuộc chiến tranh đang hoành hoành trên
đất nước này. Thỉnh thoảng lời bài hát bị ngắt quãng bởi những loạt bom rơi và
tiếng xé gào của tiếng máy bay Mỹ. Sau đó chuyển sang bài hát Bài Ca Hy Vọng có đoạn“từng đôi chim bay đi,
tiếng ca rộn ràng” mang đến một mùa xuân tươi mát, một sức sống mãnh liệt từ sự
tàn khốc của chiến tranh. Bài hát nhắn nhủ gữi niềm tin chiến thắng cho Miền
Nam thân thương đang chịu ách đô hộ của quân thù. Sau đó bài Hát Quảng Bình Quê
Ta Ơi của nhạc sĩ Hoàng Vân, càng nghe càng tự hào với truyền thống đánh giặc
và xây dựng của quê hương.
Ngày mai
tôi nằm trong danh sách phải đi sơ tán ra Nghệ An hay Thanh Hóa gì đó. Đêm nay
dưới hầm trú ẩn ba mẹ tôi làm con gà mà gia đình tôi nuôi dành dụm mãi mới có
cơ hội giết thịt. ba mẹ tôi sợ tôi đi tản cư lúc quá nhỏ mà phải chịu đựng mọi
thứ thì khổ. Sợ ở nhà người ta, không biết họ đối xử thế nào. Sợ bom đạn chiến
tranh biết đâu đi không trở về. Mẹ cứ ôm tôi mà khóc trong lòng không muốn con
rời xa mẹ. Tôi nhớ mãi hình ảnh đó nó cứ theo tôi trong suốt quãng thời gian
sau này, cho đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Chính vì quá thương con và lo lắng
đủ điều nên sáng sớm hôm sau khi cả đoàn tập trung để đi mẹ tôi quyết định
không cho tôi đi nữa. Mẹ tôi nói rằng nếu có mệnh hệ gì thì cả gia đình cùng chịu.
Tôi nghỉ đó là quyết định đúng đắn. Ngày ấy tôi thân hình nhỏ con vì ăn uống
thiếu thốn, suy nghỉ còn dại. Tôi cũng rất sợ phải xa bố mẹ và mừng vì tôi
không phải xa gia đình trong hoàn cảnh như thế này.
Hồi đó
nhà mái tranh, vắt đất cửa chống , sập lại mỗi khi đóng. Nhà nền đất, sân cũng
nền đất nên mỗi khi mưa xuống thật là lầy
lội. những đợt mưa dài ngày càng làm cho làng quê chiến tranh nằm trong hiu quạnh
và chết chóc. Ngày 02 tháng 09 năm 1969 diễn ra sự kiện đáng nhớ. Hôm đó là một
ngày âm u. Ở khắp nẻo đường đều loan tin Bác Hồ đã mất. Đài tiếng nói Việt Nam
thông báo hàng phút sự kiện này. Chúng tôi cùng những đứa trẻ trong làng chạy đến
nhà hội trường xóm Đức Hoa. Tại đây đặt một cái bàn rất rộng trên bàn có trãi tấm
vải màu đỏ trang nghiêm, Một tấm ảnh Bác Hồ đặt chính giữa bàn, xung quanh có
nhiều vòng hoa. Các chú các cô trong ban lễ tang mặc áo đen cứ đi đi lại lại thật
tất bật. Một khung cảnh buồn, thương tiếc Bác vô bờ bến. Lễ quốc tang kéo dài
trong nhiều ngày. Hàng loạt bài về Bác Hồ được truyền đi càng làm tăng thêm
lòng thương tiếc Bác. Những ngày này mọi người lớn đều rất buồn, có nhiều người
khóc. Chúng tôi mặc dù còn trẻ con, nhận thức lúc đó cũng chưa sâu nhưng cũng
buồn theo. Ngày ấy chúng tôi cũng đã biết được công lao và đức hạnh của Bác.
Nhiều đứa trẻ con thấy người lớn khóc cũng khóc theo. Thế rồi những ngày buồn
bã đó qua đi, cuộc sống cứ phải tiếp diễn.
Năm tôi
lên lớp bốn thì cha tôi đã chuyển về dạy
trường làng. Năm đó tôi được học với cha. Tuy học với cha nhưng ông rất nghiêm
khắc. Trường chuyển ra Đồi Giao Tế. Đó là một cái đồi thấp rất nhiều sỏi đỏ. Cứ
mỗi buổi tối sau khi ăn tối xong chúng tôi phải ngồi vào bàn tự học. Ở làng quê
cứ 7 giờ tối là im lặng trừ những lúc tiếng máy bay và tiếng bom đạn. Thế mà giờ
tự học đến khua 9 giờ mới được đi ngủ. Có những tháng ngày mùa đông rét giá, ăn
không đủ no, mặc không đủ ấm chúng tôi vẫn phải ngồi học. Ngày đó chúng tôi đã
biết phải học thế nào. Cách học là phải ôn lại bài cũ và đọc qua bài chuẩn bị học
ngày mai.
Năm
1972(11 tuổi) tôi đang học lớp 5. Năm đó xẩy ra nhiều sự kiện lịch sử. Năm quân
và dân ta chuẩn bị chiến dịch đánh Quảng Trị. Lệnh tổng động viên được ban
hành. Tất cả đổ dồn ra mặt trận. Những chàng trai cô gái tuổi mười tám đôi mươi
hành quân ra mặt trận. Quảng Bình là nơi trung chuyển quân. Những người lính trẻ
hành quân qua làng tôi chỉ nghỉ lại ít hôm rồi ra trận. Mặt trận Quảng Trị cách
đây chỉ 100 km. Nhà tôi tuy nhỏ nhưng cũng cho các chiến sĩ ngủ lại. Tôi nhớ có
những chú mặt non choẹt thường nhờ mẹ tôi vá áo. Trong những hoàn cảnh như vậy
mẹ tôi thường làm giúp không lấy tiền. Các chú thường trả ơn bằng những lon sữa,
hoặc lon thịt, bánh lương khô. Nhiều chú sau khi vào Nam được 01 tuần lại phải
quay ra vì bị thương. Có nhiều chú đã hy sinh. Năm đó ta đánh lớn ở Thành Cổ Quảng
Trị. Quảng Trị đã hoàn thoàn giãi phóng. Tuy nhiên để giữ lấy vùng giãi phóng
quân ta hy sinh rất nhiều. Quảng Trị mãnh đất tuy nhỏ nhưng phải chịu đựng một
khối lượng đạn bom khổng lồ. Riêng thị xã và Thành Cổ Quảng Trị phải chịu một
khối lượng đạn bom bằng 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã thả xuống thành phố
Hirôshima Nhật Bản.
Chiến
tranh ác liệt. Chúng tôi lại được lệnh đi sơ tán. Đợt đi sơ tán này được mang
tên Ca 9. Ba tôi được trên giao nhiệm vụ đi trông coi một đoàn. Gia đình tôi đi
03 người. Ba tôi, tôi và chú Thiện. 04 giờ sáng chúng tôi đã lên đường. Cuộc
hành trình đầy gian khổ và nguy hiểm. Chúng tôi phải đi qua rất nhiều làng xã
và huyện mới đến được nơi tản cư. Đi bộ và chạy qua những nơi có bom nổ chậm,
hàng trăm quả bom nằm trên đường, máy bay địch thì oanh tạc. Ba tôi có mang
theo một chiếc xe đạp, một cái ba lô đựng tư trang hành lý. Đêm đầu tiên chúng
tôi ngủ tại một làng thuộc huyện Bố Trạch. Ngôi làng nằm ở ngay trên đường Quốc lộ 1. Mặc dù chiến tranh
tàn phá nhiều năm song cây cối vẫn còn rất nhiều và vẫn rất xanh tươi. Hình như
nơi đó rất gần đèo Lý Hòa. Đêm đó chúng tôi ăn cơm xong thì ngủ sớm ở nhờ nhà
dân. Trong chiến tranh, cho nhau ở nhờ là chuyện rất thường tình. May sao trong
đêm máy bay rất ít dội bom. Sáng hôm sau chúng tôi xuất phát sớm. Trời đang còn
tối đoàn người đã lên đường. Trời sáng dần, đoàn người đi qua những bãi đất đầy
hố bom còn mùi thuốc nổ. Tôi còn nhớ
chúng tôi đi qua vùng địa danh Ba Trại. Nơi rất nhiều đạn bom giặc Mỹ ném xuống.
Bom bi nằm dày đặc trên đường. Chỉ có một lối mòn rất nhỏ đã được dọn sạch bom
để đi. Những ngày đó thật nắng dữ dội. Chúng tôi phải chạy trên quãng đường này
để tránh máy bay.
Chiều tối
chúng tôi đến một làng với những ngôi nhà lác đác giữa đại ngàn. Hoàng hôn
buông xuống tạo thành bức tranh tuyệt đẹp. Những cây trúc, cây tre ánh lên dịu
dàng. Làng nhỏ này có con sông chảy qua. Con nước mang nặng phù sa chảy về
xuôi. Chúng tôi sang sông và ngủ lại ở ngôi làng xinh đẹp này. Sau này tôi mới
biết đó là một xã thuộc huyện Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình. Sáng hôm sau từ lúc
còn rất sớm chúng tôi đã lên đường. Ba tôi bị đau chân nên đi sau đoàn. Ba dắt
xe đạp chở ba lô và các vật dụng khác, còn tôi cõng chú Thiện. Nó mập nên cũng
nặng nề. Ba tôi đi cà nhắc, chúng tôi di chuyển từ đoạn này qua đoạn khác. Đường
là con đường mòn, nhỏ, quanh co rất dễ thương. Đường trong rừng rậm, thỉnh thoãng
mới gặp một vài người dân công. Thỉnh thoãng tôi thấy heo rừng và nghe nhiều tiếng
chim hót, tiếng thú gầm. Tôi sợ lắm nhưng cũng cố gắng tỏ ra bình thường. Đi
mãi, đi mãi rồi chúng tôi cũng tới được một làng quê miền núi có nhiều hang động,
núi cao bao phủ. Đó là nơi ở di tản của đoàn chúng tôi.
Chúng
tôi ở nhờ nhà của 1 cán bộ xã. Nhà tranh vắt đất. Ăn bột sắn trộn với ngô người
địa phương gọi là Bồi. 4 giờ sáng người dân đã dậy giã bồi. tiếng chày nghe
thích lắm. Tôi được nhiệm vụ đi chăn trâu cho gia chủ. Một con trâu thật to,
béo tốt. Hàng ngày tôi cưỡi trâu vào rừng râu rồi ràng nó lại. Buổi chiều vào
núi dắt về.
Chúng
tôi đi tản cư ở huyện Minh Hóa Quảng Bình này được vài tháng thì diễn ra trận
Điện Biên Phủ trên không và hiệp Định hòa bình Pari được ký kết. Đoàn sơ tán được lệnh trở về quê.
Sau mấy tháng xa quê, xa mẹ, các em, khi trở về mọi người mừng khôn xiết. Tất cả
còn nguyên vẹn. Em Hồng lên bảy, Vân lên năm, chú Thiện lớn lên nhiều còn Thủy
mới sinh được mấy tháng. Cả gia đình sum họp. Miền Bắc đã được hòa bình. Từ đây
chấm dứt cảnh máy bay Mỹ ném bom. Cả miền Bắc bắt tay xây dựng tái thiết quê
hương.