Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

CON SÔNG QUÊ TÔI




Không biết con sông quê tôi có tự bao giờ, nhưng ông nội tôi nói rằng nó hình thành từ thời ở đây chưa có người ở. Không biết điều đó có đúng không. Khi tôi bắt đầu nhận thức được thì đã thấy con sông chạy quanh co bao bọc làng như bùa hộ mệnh. Sông bắt nguồn từ trên rừng Trường Sơn mà có lẽ từ nước Lào. Sau khi chảy qua một số làng rồi mới đến làng tôi. Thường ngày nước trong vắt, nhưng mỗi khi có mưa thì nước sông đục mang nặng phù sa. Khi con sông bắt đầu chảy vào làng, người ta chắn một cái đập ngăn nước. Hai bên bờ sông có đê cao giữ nước không tràn vào nhà dân và đồng ruộng mỗi khi lũ lụt về. Từ sông này người ta đào nhiều con mương dẫn nước tưới cho đồng ruộng. Nhiều nhà dân ở chạy dọc theo bờ sông. Trên bờ sông cũng có nhiều loại cây sum sê lá như cây Cừa, cây Đa, cây Tre…
Sau khi bao bọc làng tôi sông đi qua giữa cáng đồng rồi chảy qua làng khác sau đó đổ ra biển Đông. Con sông hồi đó trong mắt của tôi nó to và vĩ đại lắm. Ngoài việc cung cấp nước cho ăn uống, sinh hoạt, vận chuyển, tưới tiêu, điều hòa khí hậu… nó còn là cảnh đẹp của bức tranh làng quê, là chổ tụ họp vui chơi nô đùa của tụi trẻ, là cảnh sông nước hữu tình, là phong thủy hòa quyện.
Dòng sông này gắn liền với nhiều kỷ niệm của đời tôi. Những trưa hè nắng oi bức bọn trẻ chúng tôi thường nhảy xuống sông tắm, bơi lội. Đoạn sông gần nhà ông nội có nhiều cây Cừa. Trong số đó có cây mọc nhô ra hẳn ngoài sông. Đó là nơi tụ họp tắm tập thể giống như bãi tắm bây giờ. Tắm ở đây có bóng râm, lại có cành đu ra sông để nhảy. Thật là sung sướng khi leo theo cành cây ra giữa sông rồi nhảy xuống nước. Trong bài thơ Con Sông Quê Hương Tế Hanh có đoạn viết:

Chẳng biết nước có giử ngày giử tháng
giử bao nhiêu kỷ niệm của giòng trôi
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi
hoặc là:

Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non khua lội bên sông
Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
Sông mỡ nước ôm tôi vào dạ

Gần những cây Cừa đó có cây cầu Đức Nghía. Cầu này xây dựng đã lâu, nhưng bom địch nhiều lần đánh phá làm hỏng. Cầu được sửa chữa nhiều lần. Tuy nhiên hồi đó do làm ẩu hay do kỷ thuật thi công kém mà các cột cầu cũ còn nhiều. Khi nước lên chân cầu không nhìn thấy. Khi nước xuống chân cầu cũ lại nhô lên. Chúng tôi hay leo lên cầu rồi nhảy xuống nước ở độ cao 8-10m. Có lần ấy tôi vẫn nhảy như mọi khi ngày đó con nước lên. Vừa chạm nước mấy giây tôi cảm giác nghe tiếng va chạm dưới ngón chân mình. Khi nỗi lên khỏi mặt nước máu phụt ra. Tôi nhanh chóng lên bờ thì phát hiện mình nhảy chạm phải chân cầu cũ. Mãi mấy năm sau ngón chân đó còn tê.
Có một lần tôi và chú Thiện đi câu lươn về. Do trời quá trưa nên muốn bơi qua sông về nhà cho nhanh. Khi chú vừa xuống nước, đoạn đó sâu chú lại không biết bơi nên bắt đầu uống nước. Tôi phải cố hết sức để kéo chú lên bờ. Lần đó hai anh em suýt chết. Hồi đó chúng tôi còn nhỏ lắm. Có lẽ tôi lên 12 chú Thiện lên 4 tuổi.
Lại một lần khác khi tôi đang du học nước ngoài trong đợt về phép năm 1984. Tôi, anh họ(anh Kỳ), chú Hùng (lúc đó 5 tuổi) đi xuống bến đò Ly Kỳ Chơi tắm sông. Bến sông này rất nhiều kỷ niệm với nên tôi nhã ý mời mọi người đi xem lại bến sông xưa. Khi xuống đến nơi bến sông không còn nữa, chỉ có lối mòn xuống sông và cỏ mọc cao bụng người. Chúng tôi mãi kể chuyện ngày xưa khi nhìn lại không thấy chú Hùng đâu. Xung quanh trống trãi, im lặng. Chúng tôi phán đoán khả năng chú nhảy xuống nước. Thế là tôi lao xuống nước mò tìm. May quá chổ bờ sông thoai thoải cạn nên tôi mò trúng chú. Kéo chú lên, làm hô hấp nhân tạo chú ói nước ra và thở được. Có lẽ nếu chậm tí nữa chú sẽ không sống được.
Chúng tôi khi lớn lên mỗi người đi theo một hướng. Kẻ vào nam, người ra bắc, kẻ ở lại quê, người đi bộ đội, du học… Nhưng dù ở đâu, cương vị nào chúng tôi vẫn nhớ về con sông quê hương. Riêng tôi mấy chục năm du học và làm việc ở nước ngoài mặc dù đi qua rất nhiều con sông trên thế giới nhưng tôi luôn nhớ con sông quê tôi. Con sông của làng quê Việt Nam mộc mạc, giản dị, gắn kết bao tuổi thơ đúng như nhà thơ Tế Hanh viết:

Chúng tôi lớn lên mỗi người mổi ngã
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến

Nhưng lòng tôi như mưa người gió biển
Lại trở về lưu luyến bên sông

Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tối nhớ cả những người không quên biết
Những buổi trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bổng nghe dâng một nổi tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy hồn tôi như suối tưới

Quê hương ơi tình tôi cũng như sông
Tình Bắc nam tuôn chãy một giòng
Không ghềnh thác nào ngăn cản được
Tôi lại trở về nơi tôi hằng mơ ước
Tôi sẽ trở về sông nước của quê hương
Tôi sẽ trở về sông nước của tình thương

Hôm nay đây dù sống xa quê nhưng cứ mỗi dịp về quê tôi lại ra bờ sông thả hồn với những kỷ niệm một thời. Dù đời người có thay đỗi nhưng con sông quê vẫn trường tồn với thời gian. Nó ghi lại những dấu ấn lịch sử, dòng sông mang nặng phù sa giúp ích cho đời.

                                         

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

CHIẾN THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975




Năm đó tôi đang học lớp 7 chuẩn bị lên lớp 8 hệ 10 năm. Mấy ngày trước tin quân dân ta giãi phóng nhiều tỉnh lỵ Miền Nam. Nhưng chưa có chiến thắng hoàn toàn. Người người vui sướng lắm. Đi đâu cũng nghe tin chiến thắng. Thế hệ chúng tôi đã sống trong chiến tranh, đã từng nằm hầm tránh bom địch nhiều năm, đói, rét, tận mắt chứng kiến sự ác liệt của chiến tranh nên hơn ai hết rất mong đất nước mau chóng hòa bình. Cả mấy tháng nay, nhà tôi đang đúc táp lô để xây nhà. Hồi đó phần lớn người dân tự làm nhà. Gỗ thì chặt ở rừng, táp lô tự đúc, cát lấy tại lòng sông, công thì tự nhà làm và nhờ thêm mấy người bà con. Chỉ có xi măng là phải mua.

Ngày  30 tháng 4 năm 1975 chúng tôi đang đúc gạch tại nhà ông nội thì nghe Đài Tiếng Nói Việt Nam phát tin Sài Gòn đã hoàn toàn giãi phóng. Cái tin như tia chớp lan đi đến tất cả mọi miền tổ quốc. Niềm vui sướng vô bờ bến ào ạt tràn về làm nức lòng triệu triệu con tim. Ngày ấy tôi tròn 14 tuổi. Tôi đã nhãy đựng lên, khóc vì chiến thắng. Nước mắt nào cho đủ trong lúc này. Cảm xúc lúc đó lâng lâng thật khó tả. 
Thế là chiến tranh đã hoàn toàn kết thúc. Bắc Nam sum họp một nhà, non sông gấm vóc Việt Nam đã thu về một mối. Từ nay không còn cảnh chết chóc do bom đạn gây nên. Chúng ta đã có tự do, hòa bình để xây dựng đất nước. Để đất nước có ngày hạnh phúc hôm nay đã có hàng triệu người con của dân tộc đã ngã xuống, máu và xương thịt của họ nằm lại nơi chiến trường, hậu phương. Họ đã về với đất mẹ, về với cõi vĩnh hằng. Đất nước, tổ quốc và các thế hệ con cháu mai sau mãi mãi biết ơn, ghi nhớ các anh các chị vì nền độc lập của dân tộc đã anh dũng hy sinh. Đã có biết bao bà mẹ vĩnh viễn mất con, vợ mất chồng, con mất cha, cảnh gia đình ly tán. Nền kinh tế của đất nước suy tàn, thua kém các nước trong khu vực.

Cuối tháng 5 năm ấy trường cấp 3 Thị Xã Đồng Hới báo tin tôi đã thi đậu vào lớp 8 vào cấp ba(lớp 10 bây giờ). Niềm vui như được nhân lên gấp bội. Hồi đó do chiến tranh, nghèo khó ít gia đình cho con cái học lên cấp 3. Đây cũng là vinh dự của tôi và gia đình. Hồi nhỏ  lúc chưa đi học tôi thấy học sinh cấp một oai phong lắm. Khi học cấp một tôi lại thấy học sinh cấp hai hơn hẳn mình nhiều. Cho đến khi học cấp hai tôi lại thấy học sinh cấp ba sao mà vinh dự vậy. Khi đã là học sinh cấp ba tôi mơ một ngày nào đó mình sẽ vào cổng trường đại học. Khi đã trở thành sinh viên tôi mơ đi du học nước ngoài. Khi được du học tôi ước mơ mình thành tiến sĩ.  có nhà lầu có xe hơi.
Tất cả điều đó đã thành hiện thực theo thời gian. Quả là những ước mơ không viễn vông nhưng cũng không phải dễ đối với cậu dân miền quê đầy khói lửa. Không biết sao hồi đó khát vọng học giỏi và cống hiến thật cháy bỏng. Việc học của tôi không cần ba mẹ nhắc nhiều. Một buổi đến trường, một buổi phải làm việc giúp gia đình như: đi gặt lúa, làm cỏ, xay lúa thành gạo, giữ em, đi rừng đốn củi... Tất cả đều làm bằng tay chứ không có máy móc như bây giờ.Tôi đã nuôi trong mình ước mơ sau này trở thành kỹ sư, bác sĩ và đã cố gắng hết sức vươn lên trong khó khăn, thiếu thốn.

Những tháng ngày sau đó cả dân tộc như chìm sâu trong âm hưởng chiến thắng. Bài hát hùng tráng “Đất Nước Trọn Niềm Vui”  nhạc và lời Hoàng Hà như khúc khãi hoàn vang mãi vang mãi cho đến tận ngày hôm nay và mãi mãi về sau. Trong đó có đoạn:

Ta đi trong muôn ánh sao vàng, rừng cờ tung bay!
Rộn ràng bao mê say những bước chân dồn về đây.
Sài Gòn ơi!
Vững tin đã bao năm rồi một ngày vui giải phóng.
Ta nghe vang như tiếng Bác Hồ dậy từ non sông!
Rạo rực sao hôm nay, Bác vui với hội toàn dân.
Thành Đồng ơi!
Sắt son đã vang khải hoàn.
Ôi! hạnh phúc vô biên!
Hát nữa đi em, những lời yêu thương…
Đời rực sáng những ánh mắt lấp lánh,
Ta muốn ôm hôn mỗi tấc đất quê hương,
ta muốn ca vang bước chân những người chiến sĩ giải phóng kiên cường!
Đêm hoa đăng, những môi cười là bó hoa đời tươi thắm tuyệt vời,
Đẹp niềm tin mãi mãi Tổ Quốc muôn đời,
Trọn vẹn cả non sông thống nhất rạng rỡ Việt Nam.

Chúng ta tự hào vì được sinh ra trên đất nước Việt Nam yêu dấu. Một đất nước có bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Một dân tộc bách chiến, bách thắng. Một dân tộc không chịu làm nô lệ, không khuất phục trước bất kỳ kẻ thù nào. Chiến thắng mùa xuân năm 1975  là một trong những trang sử vàng chói lọi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của cha ông ta. Dân tộc Việt Nam từ trước đến giờ và từ nay trở về sau quyết không cho bất cứ thế lực ngoại xâm nào động đến từng tấc đất tổ quốc mình. Mỗi khi đất nước lâm nguy tinh thần đoàn kết, yêu nước, khí phách dân lại bùng lên thiêu trụi tất cả mọi kẻ thù xâm lược. Trên tinh thần đó chúng ta hoàn toàn có cơ sở tin tưởng rằng: đất nước Việt Nam nhất định phồn thịnh, hùng cường. Dân tộc ta nhất định ấm no, hạnh phúc, phát triễn sánh vai các dân tộc trên toàn thế giới.

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

TÔI ĐÃ LÀ LƯU HỌC SINH DU HỌC NƯỚC NGOÀI


Năm 1979 tôi thi vào trường Đại Học Y Khoa Huế. Ba đi cùng tôi vào thành phố Huế. Hai cha con ở nhờ nhà người quen trong Đại Nội. Nhà này nằm sát lò nấu thủy tinh. Sau này có dịp giảng dạy dại học ở Huế 2 năm tôi quên mất ngôi nhà đó. Ngày thi là những ngày nắng gắt. Tôi bị cảm cúm, sốt. Thành phố Huế thật đẹp và thơ mộng. Dòng Sông Hương chảy êm đềm, chùa Thiên Mụ đứng hiên ngang qua bao bom đạn. Đại Nội cổ kính, rêu phong. Bờ nam Sông Hương đường rợp cây bóng mát. Con người Huế kiêu sa và kiều diễm. Có một nhà thơ đã viết:
Tạm biệt huế một lần anh đến
Để nghìn lần anh nhớ trong mơ
Môn thi vào trường: toán, hóa, sinh. Địa điểm thi tại trường Quốc Học Huế. Đây là ngôi trường đẹp và nỗi tiếng nhất miền Trung. Hoa Phượng đỏ che kín sân trường. Thời gian mỗi môn thi là 180 phút. Do ôn bài kỹ nên đề thi tôi làm được. Chỉ có câu cuối cùng môn toán quá khó tôi suy nghĩ mãi vẫn không làm được. Môn sinh cũng có những câu khó. Tuy nhiên mặc dù bị bệnh nhưng tôi cũng hài lòng với bài làm của mình.
Thi xong hai cha con rời thành phố Huế về Quảng Bình. Một thời gian sau kết quả báo tin thật vui là tôi đã đạt điểm cao tổng: 24.5 trong đó hóa 10, toán và sinh 14.5. Tôi được đi du học nước ngoài. Tin vui lan ra cả xã Đức Ninh và cả tỉnh Quảng Bình. Thời đó sinh viên đi học nước ngoài hiếm lắm. Đây là niềm tự hào và vinh dự của gia đình, địa phương. Riêng gia đình tôi thì chả cần phải bàn. Cả gia đình vui như mở hội, nhất là ba mẹ tôi. Họ mãn nguyện vì bao nhiêu công sức nuôi dạy tôi giờ cũng được đền đáp. Những ngày này quê tôi mưa như trút, lụt lớn. Tuy thời tiết khắc nghiệt nhưng không làm bớt đi niềm vui của gia đình. Ngoài Hà Nội O, Dượng cũng vui mừng không kém. Họ đã nuôi nấng, dạy bảo  tôi một năm trời với bao vất vã lo toan.
Đầu tháng 10 năm 1979 tôi đã có giấy báo nhập học. Hồi đó khi nhập học phải cắt giấy tờ ở địa phương. Phải có “trích ngang” do công an cấp. Lý lịch bản thân và gia đình phải tốt. Công an về nhà tôi điều tra lý lịch nhiều lần để làm giấy tờ cấp hộ chiếu. Những năm đó cấp hộ chiếu khó lắm. Chỉ có khi đầy đủ giấy tờ cần thiết, Bộ Ngoại Giao tại Hà Nội sẽ cấp hộ chiếu.
Tôi chuẩn bị mọi giấy tờ để đi Hà Nội nhập học. Trước khi đi du học, chúng tôi phải học tiếng ngoại ngữ 1 năm ở khoa Lưu Học Sinh trường Đại Học Ngoại Ngữ Hà Nội. Khóa tôi có 600 lưu học sinh được phân học các thứ tiếng khác nhau. Trong số sinh viên này có nhiều người đã là thủ khoa năm thứ nhất ở các trường đại học khác nhau. Tôi học tiếng Nga để đi Mông Cổ. Lớp tôi có khoảng 45 sinh viên. Phần lớn sau này họ đi Nga(Liên Xô).
Tiêu chuẩn ăn uống cao hơn sinh viên trong nước và được học theo chương trình riêng, ăn ở riêng. Nhớ nhất là cứ mỗi buổi chiều tối chúng tôi được phát 2 ổ bánh mỳ và đường để ăn buổi sáng. Thế mà ngay sau khi phát xong bánh mỳ cùng đường biến mất vào bụng chúng tôi. Tuổi thanh niên, thời buổi lúc đó còn khó khăn nên ăn lúc nào cũng đói. Tôi nhớ mỗi người trang bị cho mình một chiếc bát B52 bằng sắt to. Lúc ăn theo mâm 6 người thì ăn thật nhanh không thì hết phần. Thế mà vẫn có lúc tôi không kịp xúc chén thứ hai vì đã hết cơm. Chúng tôi đùa nhau rằng họ cho ăn “nước canh toàn quốc, nước mắm đại dương”. Điều đó có nghĩa là nước canh toàn là nước, chỉ có một vài cọng rau. Nước mắm thì mặn như nước biển. Tuy nhiên tiêu chuẩn ăn này đã cao hơn sinh viên học trong nước nhiều.
Mỗi phòng ở 10 người gồm 5 giường tầng. Nước để tắm thì khốn khổ hơn nhiều. Trước ký túc xá có hồ nước công cộng. Nước lúc nào cũng cạn. Muốn tắm hay giặt chúng tôi phải thức khua 3 – 4 giờ sáng mới có chút nước. Thế rồi chúng tôi cũng vượt qua được.
Ngày ấy cứ mỗi tháng chúng tôi được các đồng chí Ủy Viên Bộ Chính Trị  và cán bộ cao cấp đến nói chuyện về chính trị, về lòng yêu nước, nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao cho chúng tôi – những tinh hoa của Việt Nam. Chúng tôi sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước.
Tinh thần học tập những ngày đó rất sôi nỗi, khẩn trương. Hàng đêm trên các hành lang ký túc xá sinh viên học đến khua, thậm chí đến sáng. Họ đọc tiếng ngoại ngữ như đọc kinh.
Một năm học với bao vất vã cũng qua đi. Cuối cùng chúng tôi cũng đạt được trình độ ngoại ngữ để đi du học. Tranh thủ mấy ngày nghỉ hè ngắn ngũi tôi về quê thăm gia đình. Mới có một năm mà các em lớn nhanh quá. Quê tôi còn thiếu thốn, nghèo khổ quá. Nghỉ mà thương ba, mẹ, các em đang sống nơi mà “sáng chống bảo dông, chiều ngăn nắng lửa”. Người nông dân một nắng hai sương, chân đất, đầu đội trời, quanh năm làm lụng cực khổ mà không đủ ăn, đủ mặc.
Tạm biệt quê hương, tạm biệt tuổi thơ đầy kỷ niệm, tạm biệt những người thân chúng tôi bay sang nước bạn học tập để sau này mang kiến thức về xây dựng tổ quốc Việt Nam thân yêu. Đầu tháng 10 chúng tôi bay sang Matxcova. Cuộc đời bắt đầu chuyển sang một trang sử mới.  

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2013

VĨNH BIỆT ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP




Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra đi về nơi cõi vĩnh hằng. Đó là tổn thất lớn cho dân tộc Việt Nam và thế giới. Chúng ta vô cùng thương tiếc và tự hào khi tưởng nhớ đến Đại tướng. Một vị tướng tài ba, văn võ song toàn, đạo đức, khiêm tốn, giản dị. Một vị tướng huyền thoại, đánh trăm trận trăm thắng, nhiều phen làm quân thù khiếp sợ, làm nên những chiến công chấn động địa cầu.

Chinh chiến xông pha trường trận mạc
Quân thù khuất phục tướng tài nhân
Đất nước, non sông về một dải
Thanh thản ra đi trọn ân tình(trích mạng)

Công lao to lớn của ông được đời đời con cháu ghi nhận. Ông ra đi để lại nhiều di sản quý giá. Hình ảnh của ông sống mãi trong ký ức của dân tộc Việt Nam và nhân loại.
Mấy ngày nay từ tối 04/10/2013 đến ngày ông được an tán tại quê hương ông ngày 13/10/2013 cả nước để tang, khóc thương ông. Đó là cảnh “Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”. Từ đứa trẻ thơ đến các cụ già tóc bạc phơ, từ thành thị tới nông thôn, ai ai  cũng nghẹn ngào thương xót. Dẫu biết quy luật của đời người là sinh-lảo-bệnh-tử nhưng sao vẫn thấy bùi ngùi xúc động dâng trào như chính người thân của mình ra đi vậy. Cả cuộc đời binh nghiệp đầy khó khăn, thử thách ông không bao giờ nản chí, lấy việc công đặt lên trên.
Là một người con Quảng Bình, chúng ta tự hào với mãnh đất nắng gió, thiên nhiên khắc nghiệt, anh hùng trong chiến tranh, sáng tạo trong hòa bình. Mãnh đất trung kiên đã sinh ra một vị tướng lỗi lạc ,  người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã làm rạng rỡ quê hương, non sông gấm vóc dân tộc Việt Nam. Người là biểu tượng của lòng dũng cảm, khát vọng độc lập, tự do và đã làm thay đỗi trật tự thế giới.
Hình ảnh của ông rất gần gũi, thân thương, khiêm nhường, phúc hậu, nhân từ. Sự ra đi của Đại tướng làm cho những người đang sống phải suy nghỉ lại. Ta đã làm gì cho đời, cho tổ quốc, ta phải làm gì cho khỏi hỗ thẹn với vong linh của người đi xa.
Ông là người tài năng thiên bẩm, lòng thương người vô bờ bến. Ông quý từng giọt máu của chiến sĩ, cả đời vì nước vì dân, đặt lợi ích của tổ quốc lên trên. Luôn luôn chấp hành sự phân công của Đảng. Đại tướng là một con người vĩ đại, một trong mười vị tướng giỏi nhất thế giới. Ông là nhà quân sự lỗi lạc, nhà chính trị gia kiệt suất thế kỷ 20.
Qua những ngày lễ tang Đại tướng ta thấy tinh thần đoàn kết, tính dân tộc, lòng yêu nước vô bờ bến của cả dân tộc Việt Nam. Một dân tộc chịu bao cảnh tàn khốc của chiến tranh, “sáng chống bảo dông chiều ngăn nắng lửa”, nhưng thật anh dũng quật cường. Một dân tộc biết tôn trọng lịch sử, công bằng khi đánh giá công lao của các vĩ nhân – anh hùng dân tộc. Trong những lúc khó khăn, đau khổ dân tộc Việt Nam càng thêm đoàn kết, tạo thành sức mạnh, khát vọng sống tốt hơn.

Hàng triệu trái tim cùng nghẹn lại
Hướng về Người mắt đẫm lệ rơi
Tiễn đưa Người giữa trời thu Hà Nội
Đất mẹ Quảng Bình Người yên giấc ngàn thu (trích mạng)

Đại tướng đã trở về với đất mẹ về với Bác Hồ, với anh em đồng đội với tổ tiên. Cầu mong linh hồn ông ở nơi chín suối được siêu thoát để phù hộ cho dân tộc Việt Nam thịnh vượng và trường tồn.