Lúc còn nhỏ tuổi thơ tôi gắn liền với đồng ruộng, núi rừng và biển cả. Quê tôi – thành phố Đồng Hới Quảng Bình là nơi bề ngang nhỏ nhất của Việt Nam chỉ có 50 km. Phia đông là biển, phía tây là nước bạn Lào. Dãy núi trường Sơn hùng vĩ đi ngang qua đây.
Những năm của thập kỷ 60, 70, 80 chất đốt để nấu cơm là vấn
đề nan giãi. Phần lớn ở quê người ta dùng củi. Nhà tôi cách rừng khoảng 7-10
cây số. Việc đi rừng lấy củi hay cây về làm giàn bầu, giàn bí kể cả làm nhà là những
câu chuyện dài không kể hết. Dạo đó rừng rậm còn gần làng, sau đó do tác động của
con người mà rừng ngày càng tiến sâu vào trong. Rừng càng xa có khi phải đi 10
đến 15 km.
Người dân trong xóm hay gọi nhau cùng đi rừng. Nếu sáng
mai đi thì tối nay họ đã hẹn nhau. Buổi khua 2 đến 4 giờ người ta đã gọi nhau í
ới. Hành trang chuyến đi là xe ba gác, đùm cơm có kèm thức ăn, dao rựa. Tất cả
đều đi bộ. Chúng tôi đến cửa rừng lúc trời còn tối, sau đó tiếp tục đi sâu vào
bên trong rừng rậm. Lúc tờ mờ sáng mọi người đã đến nơi rừng sâu.
Thuở nhỏ đại ngàn Trường Sơn là điều bí ẩn đối với tôi.
Tôi không hiểu nó bắt nguồn từ đâu, sao lại cao, dài, lớn và rậm rạp âm u đến
như vậy. Mặc dù bị đạn bom quân thù cày xéo nhưng rừng vẫn xanh tươi, toàn là rừng
nguyên sinh, cây nào cũng to mấy người ôm không xuể. Có nhiều loài thực động vật,
trong đó có những loài thuộc quý hiếm nhất thế giới. Lá cây rừng to, xanh thẳm,
rừng nhấp nhô tầng tầng lớp lớp giống một bức tranh thiên nhiên đồ sộ, oai
phong, uy lực. Cây cối mọc chằng chịt hầu như không còn chổ trống.
Suối rừng chả cần phải nói. Nước trong khe đá, trong lòng
núi chảy ra, nó trong vắt, nước ngọt lạ thường. Tiếng róc rách của nước nghe thật
dễ thương. Không khí rừng trong lành, tiếng chim hót ríu ran cảnh tượng thật
thanh bình. Sau những giờ đốn củi mệt nhọc buồn hôi chảy như nước chúng tôi ngồi
nghỉ bên suối. Thường thì nước suối uống luôn không cần phải đun nấu. Cảm giá
sung sướng khi được uống nguồn nước suối tươi mát này.
Chúng tôi dùng rựa để chặt củi nhỏ, còn những cây củi lớn
thì phải đốn bằng rìu. Có những cây củi khô to lớn phải chặt mấy ngày mới xong.
Việc tập kết củi là việc làm vất vã. Chổ để xe ba gác có khi xa cả cây số.
Chúng tôi phải vác trên vai những bó củi hay cây củi nặng. Nhiều lúc không thể
vác nỗi, phải mấy người kéo mới tập kết được.
Sau đó củi được chất lên xe, dùng dây rừng để cột néo lại.
Mọi người nghỉ ngơi đôi phút ăn cơm. Bữa cơm ở rừng là cơm trắng lá đùm ăn với
vừng, muối tiêu. Khi nào sang lắm thì ăn với cá cơm kho mặn, hay thịt rim sả.
Ăn cơm rừng ngon hơn ở đồng bằng. Trong lúc ăn cơm mọi người cười nói vui vẽ,
tiếng cười vang vọng cả đại ngàn. Lát sau chúng tôi lên đường kéo xe củi về
nhà. Công đoạn này vất vã, nặng nhọc nhất. Đường đi lên dốc xuống đèo, đá sỏi lởm
chởm, gập ghềnh, thật gian khổ. Người kéo, người đi sau đẩy có lúc lên dốc phải
cần hỗ trợ của nhiều người xe mới lên được. Lúc xuống dốc thì nó chạy như ngựa
phi nước đại, thật nguy hiểm. Vất vã lắm chúng tôi mới ra khỏi bìa rừng.
Tôi nhớ rất rõ hồi đó tôi còn nhỏ, sức yếu nên khi đẩy xe
củi ra khỏi rừng là người lã mệt, đói cồn cào. Khi đi ngang qua thị trấn Cộn có
cửa hàng bánh rán nhà nước. Mùi bánh thơm phức thoang thoảng cả một vùng rộng.
Qua đó là tôi cứ đòi ba mẹ mua bánh. Hai hào một cái bánh to, nhưng nhiều lúc
ba mẹ không có tiền mua. Tôi cứ khóc mãi cho đến khi đẩy xe củi về tận nhà. Cảm
giác đó tôi còn nhớ mãi. Đó là những kỷ niệm đẹp không thể quên được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét