Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

GÀ VƯỜN




Ngày còn bé tôi thích các con vật nuôi trong gia đình. Gà là một trong số đó. Thời đó nuôi gà khó lắm, lúc bị bệnh dịch không có thuốc chữa bệnh dẫn đến gà chết cả đàn. Bố mẹ tôi nuôi được vài con gà. Thịt gà là thứ xa xỉ, lâu lâu mới ăn một lần. Tôi nhớ khi nào có khách, hay những dịp đặc biệt chúng tôi mới được ăn thịt gà.
Thuở ấy được nhìn thấy đàn gà tung tăng chúng tôi thích lắm. Trong đàn gà gia đình có mấy con gà mái. Đến kỳ chúng đẻ trứng, cả nhà mừng rỡ nhưng không được ăn trứng vì dành để cho gà ấp. Chổ đẻ trứng là một cái rỗ lót nhiều rơm. Cứ mỗi lần gà mái muốn đẻ trứng thì vào nằm trong đó. Có khi một rỗ có 2-3 con gà thay nhau đẻ trứng. Mỗi con gà đẻ 10-15 trứng thì bắt đầu ấp. Có khi trứng bị chuột hoặc rắn ăn gần hết chỉ còn vài trứng.
Sau khi ấp gà mẹ cho ra khoảng 10 chú gà con. Những ngày đầu chào đời chúng tíu tít kiếm ăn bên mẹ trông rất tình cảm. Thức ăn là những sinh vật nhỏ trên mặt đất như giun đất, châu chấu, thóc lúa hoặc những vi sinh vật khác. Những thức ăn phù du trong vườn. Hằng ngày chúng cần mẫn kiếm ăn. Trong thời gian ngắn đàn gà con lớn nhanh như thổi.
Gà ngon nhất là gà tơ lúc 600g-800g. Gà này nấu cháo cho những thành viên trong gia đình bị bệnh, ốm đau. Gà hơn 1 kg là gà thành phẩm có thể giết thịt. Bố mẹ tôi lúc túng tiền thường bắt một, hai con gà ra chợ bán. Tôi nhớ có nhiều lần mẹ bán gà để mua thêm gạo chống đói. Có lúc bán gà để mua sách vỡ, áo quần cho chúng tôi.
Vùng tôi hay làm đám giỗ. Trong những lúc như vậy bao giờ cũng phải làm thịt vài con gà để cúng và đãi bà con. Hồi đó tôi thích nhất là thịt gà luộc chấm với muối, tiêu, lá chanh. Lòng gà và nội tạng của nó như tim, gan, tiết canh là những món ngon mà ba mẹ luôn dành cho chúng tôi. Ngoài ra món cháo thịt gà vườn cũng là món chúng tôi thích. Ba mẹ tôi hay nấu cháo thịt gà. Chúng tôi có những phong trào thi đua học giỏi, đạo đức tốt. Khi ai đó đạt thành tích trong học tập và rèn luyện thì ba mẹ cũng làm thịt gà ăn mừng. Vì vậy chúng tôi luôn phấn đấu thi đua nhau trong các phong trào và tiêu chí để được thưởng.
Nhiều chuyện xung quanh gà vườn ở quê tôi. Ranh giới nhà dân chỉ là hàng cây hay hàng rào, bụi chuối, tre nứa…Vì vậy gà nhà này chạy qua vườn nhà kia ăn là chuyện bình thường. Tuy vậy gà thỉnh thoảng bị bắt trộm. Trong hoàn cảnh đó nếu không bỏ qua sẽ nghi ngờ lẫn nhau. Tôi chứng kiến nhiều cảnh cãi vã nhau vì mất con gà. Hàng xóm láng giềng mất lòng. Những xung đột đôi khi kéo dài hàng tuần không kết thúc. Gà lúc đó đối với những người dân quê là tài sản có giá trị.

Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014

BÁNH KẸO CẤT TRONG TỦ ĐỰNG THÓC



Quê tôi người dân thường cất lúa đã phơi khô vào tủ thóc. Đó là cái tủ to, tùy vào từng nhà, kích thước trung bình là cao 1,2m, ngang 3m, rộng 2m. Nhà nào có tủ thóc to là nhà đó liệt vào gia đình giàu có. Lúa được đổ vào tủ cho đến khi đầy. Người ta ăn dần cho đến khi giáp hạt.
Tủ thóc nhà tôi để ngay phía sau gian hông. Phía trước tủ có tường che lại nên không thấy tủ. trên tủ có cửa để bỏ và lấy thóc ra. Hồi đó rất nhiều thứ người ta bỏ vào cất trong tủ này rồi khóa lại. Phòng để tủ thóc cũng có cửa khóa.
Dạo trước bánh ngọt, sữa hộp hiếm lắm mà lại đắt tiền. Ba mẹ tôi thỉnh thoảng mua bánh quy về cất trong đó, lâu lâu có dịp gì đó mới cho chúng tôi ăn. Ngày đó cha mẹ cũng hay đưa ra các phong trào thi đua nhau học tốt, rèn luyện tốt để thưởng cho chúng tôi bánh kẹo. Phong trào này có thể theo tuần, tháng hay năm học.
Hồi còn nhỏ chúng tôi cái gì cũng thèm ăn. Đất nước còn nghèo, người dân còn đói, chúng tôi thiếu thốn đủ thứ, nhất là đói ăn. Ước mơ là làm sao ăn no, mặc ấm.
Vì quá thèm bánh kẹo tôi suy nghỉ mãi không biết làm thế nào để lấy được. Ba mẹ tôi nghỉ đã khóa cửa phòng nên khỏi khóa cửa tủ. Nhà tôi có gác để đồ thông qua nhiều gian nhà. Gác này cao hơn 3 m không có đường lên. Lúc nào muốn lên phải có thang. Tôi nghỉ cách làm sao để qua được phòng đó.
Một lần nọ tôi đã nghỉ ra cách leo lên gác bằng cột nhà. Từ gác leo vào phòng đó. Thế là tôi làm được và ăn vụng bánh kẹo nhiều lần mà không ai biết. Tuy vậy tôi không dám ăn nhiều vì sợ lộ. Đó cũng là một kỷ niệm vui tuổi nhỏ.

MÓN ĂN QUÊ




Quê tôi có nhiều món ăn ngon. Đó là những món do người dân ở đây tự trồng trọt, chăn nuôi hay đánh bắt được và tự nấu. Sau đây là những món đó:
1.    Món rau muống xào tỏi
Rau muống trồng ở vườn có nước mưa hay lấy từ sông. Phân chuồng là phân bón chính, ngoài ra còn có phân đạm. Rau ngon nhất là sau những ngày trời mưa, rau trở nên xanh non. Người ta hái rau, rữa sạch. Nấu nước sôi luộc qua rau. Cho dầu vào chảo, phi tỏi cho rau luộc vào chiên, cho thêm đậu lạc rang sẳn vào. Cho gia vị vừa ăn. Vớt rau ra đĩa. Rau nên xào vừa chín giòn.
2.    Cá lóc nấu canh chua
Cá lóc đồng tự nhiên, rữa sạch, cắt khúc, cho gia vị vào ướp. Cho dầu vào chảo, phi hành, cho cá vào. Cá rán sơ qua, cho nước vừa ăn. Nấu sôi nồi canh. Cho cà chua và khế chua(cắt nhỏ) vào chảo. Nêm canh vừa cho ra tô.
3.    Cháo lươn đồng
Cắt tiết lươn đồng, cho nước sôi trụng qua, dùng tro để chà sạch nhớt lươn. Mỗ lươn, vứt hết ruột. Rữa sạch, cho nguyên con lươn đã được làm sạch vào luộc đến chín. Mang lươn ra xé nhỏ cho vào nồi nước  luộc lươn bỏ ít gạo, cho gia vị vào nấu nhừ gạo. Cho rau quế vào cháo, nêm vừa.
4.    Mực ống luộc
Mực ống ở Quảng Bình thuộc loại mực ngon. Mực ngư dân vừa đi câu về, rữa sạch, cho vào nồi luộc chín tới. cho ra đĩa, cắt thành lát, cắt ít lát gừng vào. Làm chén nước mắm thật ngon chấm với mực.
5.    Bánh bột lọc
Củ sắn rữa sạch, mang đi mài, chưng cất bột. Phơi khô bột, cho bột vào chậu, dùng nước sôi để trộn thật đều. Nặn bột vừa phải thành hình như tán nấm, cho nhân đã chuẩn bị trước vào(thường thì ngưới ta làm nhân tôm thịt với măng, nấm mộc nhĩ). Lấy lá gói lại cho vào nồi nấu chín.
6.    Khoai, bắp luộc cũng là những món ngon của quê tôi. Ngoài ra còn rất nhiều
món ăn khác như cá kho các loại, gồm cá nước ngọt và cá nước mặn.

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014

MÙA GẶT LÀNG QUÊ




Tôi được may mắn sinh ra tại một làng quê làm nông nghiệp. Vì vậy mùa gặt là chuyện thường đối với tôi. Vào mùa những cánh đồng biến thành màu vàng mênh mông. Hạt lúa nặng trĩu chờ ngày thu hoạch.
Trước đây lúa được những người nông cắt rồi gom lại, bó tự gánh về hoặc dùng xe ba gác chở về. Những ngày mùa làng quê rộn rã tiếng người xe. Ai ai cũng háo hức hy vọng một vụ mùa bội thu. Những đoàn người mang đầy thóc lúa về sân kho Hợp Tác Xã. Lúc này không khí lao động khẩn trương, lá cờ đỏ sao vàng tung bay khắp cánh đồng tạo nên một bức trang huyền ảo.

Quê tôi thường làm hai vụ: hè, thu đông. Ngày xưa mô hình Hợp Tác Xã làm chấm công. Lúa được mang về sân thôn xóm. Sau đó đến khâu tuốt lúa. Những năm còn học phổ thông tôi tham gia nhiều công việc trong mùa gặt. Có nhiều bữa phải làm sáng đêm đập lúa. Khổ nhất là sau mùa lụt, bùn phủ một lớp nên khi tuốt lúa bụi bay mù mịt cả hội trường. Sáng hôm sau về nhà áo quần, người như dưới đất chui lên.
Trong mùa gặt có công đoạn phơi lúa. Nhà, sân kể cả đường đi đều tận dụng để làm chổ phơi. Khổ nhất là vào những ngày mùa gặp mưa. Nhiều lúc không gom kịp lúa bị ướt hư hỏng. Nhất là những cơn mưa bất chợt. Vì vậy chúng tôi phải quan sát rất kỷ bầu trời. Có những lúc trời nhiều mây đen che kín, chúng tôi nhanh chóng thu lúa cất vào trong nhà nhưng trời không mưa, sau lại nắng, hoặc ngược lại.
Mùa gặt vụ hè cũng là lúc nước khô hạn. Cá trên đồng ruộng được dồn về những vũng nước. Đây là lúc người ta bắt nhiều cá dễ dàng. Những con cá lóc, cá rô đồng béo ngậy. Những loài cá này thường nấu với đồ chua, hoặc kho tộ ăn không thể quên được.
Mùa gặt thu đông thường đi liền với mùa mưa lụt. Có năm lụt lớn lúa bị ngập úng. Mùa này tôm cá nhiều. Thời tiết mát mẽ hơn. Vụ này thích hợp với việc trồng lúa nếp.

LÀNG ĐỨC PHỔ




Làng Đức Phổ quê tôi có lẽ hình thành từ lâu lắm. Làng có 8 thôn nằm gần kề nhau thành cụm dân cư. Phía tây tiếp giáp với con sông, Phía bắc tiếp giáp với làng khác. Phía đông, phía nam là cánh đồng trải dài xanh mượt.
Con đê làng chạy dài từ phía tây bắc đến đông nam đi theo là những ngôi nhà và hàng cây xanh tốt. Con sông quê hiền hòa mang nặng phù sa cho những cánh đồng trù phú. Những ngôi nhà nhấp nhô tạo nên khung cảnh làng quê thanh bình.
Cánh đồng thẳng cánh cò bay. Giữa những cánh đồng là những con đường thẳng tắp rợp bóng cây xanh. Tuổi thơ tôi gắn liền với cảnh quan nơi đây. Những lần đuổi bắt bướm chạy đến mệt lã. Chúng tôi ngày ngày chạy thả diều trên con đường làng đầy gió. Bầu trời xanh ngắt, những cánh diều tung tăng bay lượn giữa không trung. Cảm giác thật hạnh phúc. Đúng như trong bài thơ “Quê Hương” nhà thơ Đỗ Trung Quân có đoạn viết:

Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Nhà tôi ở ngay cánh đồng. Hồi đó cha tôi có chiếc xe đạp nữ, đó là tài sản lớn của gia đình. Mỗi lần lấy xe tập đi tôi khoái hết chổ nói. Tôi lúc đó còn nhỏ khoảng 7-8 tuổi nên khó khăn lắm mới chống chân xuống đất được. Xe mới, con đường trải sỏi bằng phẳng, xe cứ bon bon, cảm giác sung sướng vô tận.
Giữa làng có cái chợ. Nhà ông bà nội tôi nằm sát bên chợ. Lúc ba đến bốn tuổi, tôi còn nhớ cảnh họp chợ như thế nào. Tôi được cha mẹ cho tiền mua bánh đa. Giá mỗi cái bánh chỉ 2 xu.
Ở quê dân làng thường quan tâm nhau. Chuyện gì xảy ra đầu làng ngõ xóm đều biết cả. Đội văn nghệ làng thường xuyên tập luyện và biểu diễn. Mỗi lần đi xem văn nghệ là tôi hưng phấn yêu cuộc đời hơn.
Người dân quê tôi kiên cường trong chiến đấu, cần cù trong lao động. Lớp lớp cha ông đã cầm súng xông ra chiến trường bảo vệ non sông. Trong số họ có nhiều người đã anh dũng hy sinh để cho tổ quốc trường tồn. Kế tục truyền thống anh hùng cách mạng của cha ông, ngày nay con cháu họ đã lao động cần mẫn để xây dựng lại quê hương ngày càng giàu đẹp.
Sau những năm chiến tranh làng quê tôi bị bom đạn cày xới. Cảnh điêu tàn sau mỗi trận bom. Tuy vậy người dân vẫn kiên cường, bất khuất, tương thân tương ái giúp nhau trong hoạn nạn. Giờ đây bộ mặt làng quê thay đổi hoàn toàn. Những nhà xây kiên cố mọc lên như nấm, có nhiều dạng nhà vườn, biệt thự. Đường làng hầu như bê tông hóa. Trong làng nhiều nhà có xe ô tô. Lớp lớp thanh niên làng đi xa làm ăn. Làng chỉ còn người già và trẻ nhỏ. Cảnh xóm làng yên tĩnh hơn xưa.

GIÀN BẦU GIÀN BÍ




Hầu như ở quê ai cũng biết giàn bầu, bí. Giàn này được dựng trên sân trước nhà hay trong vườn. Vật liệu làm là những cây chặt từ trong rừng. Người ta dựng cột lên rồi gác cây lên trên thành giàn.
Cây bầu, cây bí trồng dưới đất rồi cho leo lên giàn. Giờ giàn đã phủ một lớp cây leo. Sau thời gian một vài tháng cây ra trái nặng trĩu cả giàn. Năm xưa bố mẹ tôi hay trồng cây bí, cây bầu. Riêng quả bầu nấu canh với tôm, tép ngoài ruộng mới đánh bắt về thì không canh nào ngon bằng. Cảm giác canh ngọt, tươi, có mùi đặc trưng của bầu.
Riêng trồng bí đỏ có nhiều năm gia đình tôi thu hoạch khá. Những quả bí to đường kính 41-50 cm đỏ ngậy. Đến mùa mang bí cất vào nhà để ăn dần. Bí đỏ nấu với đỗ lạc giã nhỏ, với tỏi ăn ngon bùi, bổ. Có nhiều lần chúng tôi ăn canh bí thay cơm vì quá ngon.
Sau quá trình sinh trưởng của bí, bầu thì nó chết. Ta thu dọn chuẩn bị trồng lứa khác. Riêng giàn cây phải vài vụ mới thay giàn mới. Cứ thế giàn cứ tồn tại liên tục trong quá trinh trồng trọt của một gia đình. Thời đó phong trào trồng bầu, bí mạnh mẽ. Nhà nào cũng trồng, nhà nào cũng thu hoạch, vui lắm.
Giàn còn che nắng che mưa cho con người. ngoài ra nó còn trang trí làm đẹp cho ngôi nhà, làng mạc. Nhiều gia đình còn tạo cảnh làm giàn từ cửa ngõ vào đến sân nhà. Có nhiều nhà giàn uốn lưọn theo con đường trông rất đẹp.
Ngày nay khi mức sống cao hơn nhiều nhà đã làm giàn bằng sắt có thể để lâu hơn, chắc chắn hơn. Nhiều nhà không còn trồng bầu, bí nữa mà họ ra chợ mua. Tuy vậy giàn bầu, bí vẫn mãi đi vào tiềm thức trồng trọt của người dân quê.