Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014
BA ĐI CÔNG TÁC
Hồi nhỏ tôi được may mắn luôn luôn sống cùng bố mẹ và các em trong gia đình. Ba tôi đi dạy nên có những năm phải dạy ở huyện khác. Đó là thời gian tôi còn nhỏ lắm. Khi ba đi công tác chúng tôi nhớ ba nhiều. Sau này khi tôi bắt đầu học lớp 3 thì ba tôi chuyển về trường làng dạy. Năm tôi học lớp bốn thì được cha làm chủ nhiệm lớp. Tuy vậy sau này cha cũng hay đi công tác xa vài ngày hay vài tuần. Lúc này chúng tôi cũng đủ lớn nên đã nhận thức được tình cảm phần nào. Cha thường làm những việc của người đàn ông, những việc nặng. Lúc ba ở nhà thì vui hơn rất nhiều và đỡ sợ hơn. Đặc biệt những buổi tối mùa đông giá rét, trời tối nhanh, bóng đêm ụp xuống. Làng quê mới có 7 giờ tối mà quá vắng vẽ, không bóng người. Trong nhà không có tiếng người lớn đàn ông, căn nhà trở nên hiu quạnh hơn. Rồi có những đêm bom đạn giặc Mỹ dội xuống, màn đêm bị xé nát bỡi những sáng chớp của đạn bom, tiếng kêu cứu thét gào của những người bị thương. Một quang cảnh hỗn loạn trong những đêm chiến tranh ác liệt mà không biết cha ở đâu? có được an toàn không? Thuở nhỏ tôi sợ đủ điều có thể xẩy ra với cha mẹ mình. Tôi sợ họ chết đi thì mình mồ côi khổ cực, sợ cha mẹ đi xa rồi không trở về nữa. Sợ cha mẹ không thương mình nữa, sợ ba mẹ đối xử không công bằng với mình. Sợ ba mẹ cãi vã nhau không hòa thuận... Nói tóm lại là tôi sợ đủ điều. May mắn thay tất cả những điều tôi sợ đều không xảy ra. Khi cha đi vắng, mặc dù còn nhỏ nhưng là con trai đầu nên đương nhiên tôi trở thành người trụ cột trong gia đình. Tôi phải làm mọi việc có thể và không có thể để thay vai trò người cha trong lúc cha đi vắng. Gia đình các em đông lại còn nhỏ nên không thể để mẹ làm một mình được. Giờ nhớ lại những ngày tháng đó tôi rất hài lòng với sự cố gắng làm việc của mình. Chính nhờ những thử thách đó nên sau này dù có đi đâu, gặp hoàn cảnh nào tôi không bị bối rối mà cố gắng xử lý tốt và hoàn thành công việc một cách tốt nhầt. Hồi đó làm gì có điện thoại để liên lạc. Cũng chả biết hỏi ai. Khi cha đi có hẹn ngày trở về. Tuy nhiên có những lần cha về muộn, trể một vài ngày là chuyện thường. Đang trong thời gian chiến tranh, bom đạn ác liệt, đường sá bị chia cắt. Lại có những đợt lụt kéo dài làng quê ngập nước, ngăn cách nhiều ngày. Phương tiện đi có khi đi bộ, có khi đi xe đạp. Quãng đường đi công tác khi gần, khi xa. Cứ mỗi lần cha về trể hẹn là cả nhà đều lo lắng. Không biết cha có bị gì không? có bị ốm đau không? có bị thương không? bị nước lũ cuốn trôi không? Hàng nghìn câu hỏi chúng tôi đặt ra. Nhưng cuối cùng rồi cha cũng đã trở về sau những chuyến công tác xa nhà trễ hẹn. Những lần như thế chúng tôi mừng khôn xiết. Cảm giác hạnh phúc dâng tràn sau những ngày xa cách. Mà hồi đó cũng lạ lắm, cha mẹ cứ đi xa một ngày là chúng tôi cảm thấy như lâu lắm. Trong lòng cứ mong từng giây từng phút để chờ họ trở về. Đúng là không sai khi ông cha ta có câu: Công cha như núi thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Không ai có thể thay cha mẹ mình được. Họ là những người sinh thành nên chúng ta đương nhiên là người thương chúng ta nhất. Trong cuộc sống thường ngày có những lúc ta làm cho cha mẹ phật lòng,hay làm những điều bất hiếu để sau này khi nghỉ lại chúng ta thật ân hận, xót xa.
Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014
ÁNH SÁNG ĐIỆN VỀ QUÊ
Khi tôi tròn 3 tuổi tôi đã nhìn thấy ánh điện. Thị xã Đồng Hới ngày ấy có đèn đường. Làng tôi nối với thị xã bỡi một con đường tráng nhựa. Cha tôi hay chở tôi đi xuống thị xã để mua sắm hay đi ăn bánh rán. Tôi nhớ có hôm tối hai cha con chở nhau xuống thị xã. Dọc đường ánh đèn sáng đẹp, lung linh. Ánh sáng đó đối với tôi lúc đó thật huyền ảo. Mười hai năm sau đó quê hương tôi không có điện. Chiến tranh đã hủy diệt thị xã thành đống đỗ nát, cảnh làng quê điêu tàn. Hơn chục năm phải sống trong cảnh tối tăm. Ban đêm chúng tôi sử dụng ánh sáng đèn Hoa Kỳ. Ngọn đèn dầu hỏa leo lét ánh sáng mờ mờ thật ảm đạm. Tuy vậy cũng không được thường xuyên sử dụng đèn này bởi lẽ làm mồi cho máy bay địch oanh tạc. Chúng tôi phải đốt đèn dưới hầm trú ẩn. Những trang sách và kiến thức cũng nhờ ánh đèn này mà chúng tôi mới lĩnh hội được. Trong những năm chiến tranh này chỉ có ánh sáng của bom đạn cùng với tiếng gầm rú của máy bay giặc Mỹ. Những chùm sáng lóe lên trên không trung thật rùng rợn, chết chóc. Cảm giác đó giờ vẫn còn trong tôi. Ánh sáng điện thời đó là một điều mơ ước của cả một dân tộc đang chìm trong chiến tranh. Một ước mơ thật xa vời không biết lúc nào thành sự thật. Mùa xuân năm 1975 đất nước hoàn toàn giãi phóng. Mãi giữa năm 1976 quê tôi được sự giúp đỡ của Liên Xô đã xây dựng nhà máy nhiệt điện Nam Lý. Những ngày đầu tiên có điện làng quê thật sáng sủa. Ánh sáng thời kỳ đó còn yếu lắm. Điện áp không ổn định. Có nhiều thời gian ánh sáng còn yếu hơn cả đèn dầu. Sau sự kiện có điện là kéo theo nhiều đồ dùng bằng điện được sử dụng như: ti vi, tủ lạnh, quạt, bàn ủi, đài radio, caxét... Làng quê như được thay áo mới, những dấu hiệu của cuộc sống hiện đại đang hình thành. Người dân thức khua hơn, các tụ điểm vui chơi giãi trí cũng được hình thành từ đó. Các đoàn nghệ thuật về quê tôi biểu diễn ngày càng nhiều hơn. Các rạp chiếu bóng, sân khấu biểu diễn ngoài trời mọc lên ngày càng nhiều. Một thời gian dài quê tôi xài bóng đèn tròn dây tóc. Ít nhà dùng bóng đèn típ, có lẽ hồi đó giá đèn loại đó mắt. Nhà ai dùng đèn típ là nhà giàu. Ánh sáng đèn típ sáng dễ chịu, từ xa có thể nhìn thấy. Hồi đó trong làng đã có nhà dùng bóng đèn màu xanh lá cây nhìn quý phái lắm. Thị xã lại có ánh sáng điện trở lại. Phố phường đông vui hơn. Cuộc sống của người dân hạnh phúc hơn. Đó là kỷ niệm của một thời mà chúng tôi đã chứng kiến: tối tăm, nghèo đói không thể nào quên được.
Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2014
ĂN BO BO
Những năm sau giãi phóng đất nước ta gặp muôn và khó khăn. Chiến tranh tàn phá mọi thứ. Sản xuất không phát triễn, các thế lực thù địch cấm vận, không thông thương được. Nền kinh tế rơi vào thế bế tắc. Tôi lúc đó đã 15 tuổi. Cái tuổi đang ăn đang lớn. Thời gian đó nhiều người bị đói. Không đủ gạo để ăn. Chúng tôi phải ăn đủ thứ kiếm được để sống qua ngày. Thức ăn chủ yếu là hạt bo bo. Tôi nhớ đó là hạt màu nâu. Nấu lâu lửa nhỏ mới chín được. Thời đó nhiên liệu để đun nấu thật khan hiếm. Nồi bo bo cho 8 người ăn chỉ đun trong vòng 20 phút. Nhà tôi đi rừng đốn được ít cũi. Quá trình nấu, đun bo bo chỉ qua loa, vì vậy khi ăn nhai thật khó khăn. Bo bo nấu xong còn cứng, nhưng đến bữa cũng phải ăn. Cứ mỗi bữa ăn nhai được 15 phút thì mõi cả mồm mà bụng vẫn còn đói. Thức ăn chỉ có nước mắm, vài thứ rau vườn, thịt cá hầu như không có, dầu rán cũng không.
Tôi nhớ chuẩn bị bữa ăn khó khăn lắm. Tôi là con cả nên phải làm mọi thứ kể cả nấu ăn. Cứ đến bữa trưa ăn vội vã rồi phải đi học. Thèm cơm lắm nhưng không có gạo để nấu ăn. Có những lúc vừa nấu ít cơm vừa phải nấu bo bo để ăn độn. Thời gian ăn bo bo kéo dài vài năm cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ 20.
Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014
ĂN LIÊN HOAN TRƯỜNG BA DẠY HỌC
Tuổi nhỏ tôi luôn cảm thấy đói và thiếu thốn đủ điều. Có lẻ đó là tình trạng chung của lũ trẻ thời đó.
Ba tôi làm nghề dạy học. Ông dạy nhiều nơi trong những năm chiến tranh cũng như hòa bình. Mặc dù khó khăn nhưng trường, nơi ông công tác năm nào cũng tổ chức liên hoan cuối năm. Trong những lần đó ba hay chở tôi đi ăn. Những lần đó tôi vô cùng hưng phấn. Cha tôi thường thông báo cho tôi trước mấy ngày. Ăn liên hoan giống như là phần thưởng cao quý, thực dụng có tác dụng tích cực đối với những trẻ em đói ăn như chúng tôi.
Tôi nhớ nhất là năm tôi tám tuổi ông dẫn đi ăn liên hoan ở trường tiểu học “Mà Đa”. Trường này nằm ở vùng đồi núi cách nhà tôi khoảng 7 cây số. Lúc đó còn chiến tranh, máy bay Mỹ vẫn thả bom hàng ngày. Ba đèo tôi đi bằng xe đạp. Con đường sỏi đá lên đồi xuống dốc ngoằn ngoèo. Thỉnh thoảng hai bên đường có vài cây xanh, hố bom nằm khắp nơi. Quang cảnh điêu tàn đang trong thời gian chiến tranh ác liệt.
Chúng tôi đến nơi cũng là lúc mọi người tập trung đầy đủ trên những chiếc ghế dài học sinh. Những đĩa thức ăn được đặt lên bàn. Khoảng năm món nhưng tôi cảm thấy rất thèm ăn. Có món thịt gà vườn luộc, món canh bí đao và món cá kho… Sung sướng tôi ngồi ăn no nê và thỏa mản. Cha tôi thì vừa ăn vừa trao đổi với đồng nghiệp. Họ cũng ăn ngon lành không kém tôi. Điều đó phản ánh cảnh ăn uống thiếu thốn của cả nước chứ không phải riêng vùng chúng tôi.
Lần sau cùng đi ăn cùng cha ở trường làng tôi “Đức Ninh”. Lần đó là những năm tháng mà cuộc sống có vẽ khá hơn một chút. Thức ăn nhiều hơn, nhiều món ăn hơn, nhiều người tham gia. Tuy nhiên vẫn nằm trong những năm chiến tranh nên những buổi liên hoan như thế này còn quá ít và quý lắm.
Sau này khi đã lên cấp hai tôi không còn thích đi ăn liên hoan với cha nữa. Có lẻ do lớn nên tôi mắc cỡ, nhưng tôi vẫn nhớ những buổi liên hoan ngày xưa đó. Nó có cái gì đó xa xỉ, quá xa vời với người dân quê chân lấm tay bùn.
Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014
GÀ VƯỜN
Ngày còn bé tôi thích các con vật nuôi trong gia đình. Gà
là một trong số đó. Thời đó nuôi gà khó lắm, lúc bị bệnh dịch không có thuốc chữa
bệnh dẫn đến gà chết cả đàn. Bố mẹ tôi nuôi được vài con gà. Thịt gà là thứ xa
xỉ, lâu lâu mới ăn một lần. Tôi nhớ khi nào có khách, hay những dịp đặc biệt
chúng tôi mới được ăn thịt gà.
Thuở ấy được nhìn thấy đàn gà tung tăng chúng tôi thích lắm.
Trong đàn gà gia đình có mấy con gà mái. Đến kỳ chúng đẻ trứng, cả nhà mừng rỡ
nhưng không được ăn trứng vì dành để cho gà ấp. Chổ đẻ trứng là một cái rỗ lót
nhiều rơm. Cứ mỗi lần gà mái muốn đẻ trứng thì vào nằm trong đó. Có khi một rỗ
có 2-3 con gà thay nhau đẻ trứng. Mỗi con gà đẻ 10-15 trứng thì bắt đầu ấp. Có
khi trứng bị chuột hoặc rắn ăn gần hết chỉ còn vài trứng.
Sau khi ấp gà mẹ cho ra khoảng 10 chú gà con. Những ngày
đầu chào đời chúng tíu tít kiếm ăn bên mẹ trông rất tình cảm. Thức ăn là những
sinh vật nhỏ trên mặt đất như giun đất, châu chấu, thóc lúa hoặc những vi sinh
vật khác. Những thức ăn phù du trong vườn. Hằng ngày chúng cần mẫn kiếm ăn.
Trong thời gian ngắn đàn gà con lớn nhanh như thổi.
Gà ngon nhất là gà tơ lúc 600g-800g. Gà này nấu cháo cho
những thành viên trong gia đình bị bệnh, ốm đau. Gà hơn 1 kg là gà thành phẩm
có thể giết thịt. Bố mẹ tôi lúc túng tiền thường bắt một, hai con gà ra chợ
bán. Tôi nhớ có nhiều lần mẹ bán gà để mua thêm gạo chống đói. Có lúc bán gà để
mua sách vỡ, áo quần cho chúng tôi.
Vùng tôi hay làm đám giỗ. Trong những lúc như vậy bao giờ
cũng phải làm thịt vài con gà để cúng và đãi bà con. Hồi đó tôi thích nhất là thịt
gà luộc chấm với muối, tiêu, lá chanh. Lòng gà và nội tạng của nó như tim, gan,
tiết canh là những món ngon mà ba mẹ luôn dành cho chúng tôi. Ngoài ra món cháo
thịt gà vườn cũng là món chúng tôi thích. Ba mẹ tôi hay nấu cháo thịt gà. Chúng
tôi có những phong trào thi đua học giỏi, đạo đức tốt. Khi ai đó đạt thành tích
trong học tập và rèn luyện thì ba mẹ cũng làm thịt gà ăn mừng. Vì vậy chúng tôi
luôn phấn đấu thi đua nhau trong các phong trào và tiêu chí để được thưởng.
Nhiều chuyện xung quanh gà vườn ở quê tôi. Ranh giới nhà
dân chỉ là hàng cây hay hàng rào, bụi chuối, tre nứa…Vì vậy gà nhà này chạy qua
vườn nhà kia ăn là chuyện bình thường. Tuy vậy gà thỉnh thoảng bị bắt trộm.
Trong hoàn cảnh đó nếu không bỏ qua sẽ nghi ngờ lẫn nhau. Tôi chứng kiến nhiều
cảnh cãi vã nhau vì mất con gà. Hàng xóm láng giềng mất lòng. Những xung đột
đôi khi kéo dài hàng tuần không kết thúc. Gà lúc đó đối với những người dân quê
là tài sản có giá trị.
Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014
BÁNH KẸO CẤT TRONG TỦ ĐỰNG THÓC
Tủ thóc nhà tôi để ngay phía sau gian hông. Phía trước tủ
có tường che lại nên không thấy tủ. trên tủ có cửa để bỏ và lấy thóc ra. Hồi đó
rất nhiều thứ người ta bỏ vào cất trong tủ này rồi khóa lại. Phòng để tủ thóc
cũng có cửa khóa.
Dạo trước bánh ngọt, sữa hộp hiếm lắm mà lại đắt tiền. Ba
mẹ tôi thỉnh thoảng mua bánh quy về cất trong đó, lâu lâu có dịp gì đó mới cho
chúng tôi ăn. Ngày đó cha mẹ cũng hay đưa ra các phong trào thi đua nhau học tốt,
rèn luyện tốt để thưởng cho chúng tôi bánh kẹo. Phong trào này có thể theo tuần,
tháng hay năm học.
Hồi còn nhỏ chúng tôi cái gì cũng thèm ăn. Đất nước còn
nghèo, người dân còn đói, chúng tôi thiếu thốn đủ thứ, nhất là đói ăn. Ước mơ là
làm sao ăn no, mặc ấm.
Vì quá thèm bánh kẹo tôi suy nghỉ mãi không biết làm thế nào
để lấy được. Ba mẹ tôi nghỉ đã khóa cửa phòng nên khỏi khóa cửa tủ. Nhà tôi có
gác để đồ thông qua nhiều gian nhà. Gác này cao hơn 3 m không có đường lên. Lúc
nào muốn lên phải có thang. Tôi nghỉ cách làm sao để qua được phòng đó.
Một lần nọ tôi đã nghỉ ra cách leo lên gác bằng cột nhà.
Từ gác leo vào phòng đó. Thế là tôi làm được và ăn vụng bánh kẹo nhiều lần mà
không ai biết. Tuy vậy tôi không dám ăn nhiều vì sợ lộ. Đó cũng là một kỷ niệm
vui tuổi nhỏ.
MÓN ĂN QUÊ
Quê tôi có nhiều món ăn ngon. Đó là những món do người
dân ở đây tự trồng trọt, chăn nuôi hay đánh bắt được và tự nấu. Sau đây là những
món đó:
1. Món
rau muống xào tỏi
Rau muống trồng ở vườn có nước mưa hay lấy từ sông. Phân
chuồng là phân bón chính, ngoài ra còn có phân đạm. Rau ngon nhất là sau những
ngày trời mưa, rau trở nên xanh non. Người ta hái rau, rữa sạch. Nấu nước sôi
luộc qua rau. Cho dầu vào chảo, phi tỏi cho rau luộc vào chiên, cho thêm đậu lạc
rang sẳn vào. Cho gia vị vừa ăn. Vớt rau ra đĩa. Rau nên xào vừa chín giòn.
2. Cá
lóc nấu canh chua
Cá lóc đồng tự nhiên, rữa sạch, cắt khúc, cho gia vị vào
ướp. Cho dầu vào chảo, phi hành, cho cá vào. Cá rán sơ qua, cho nước vừa ăn. Nấu
sôi nồi canh. Cho cà chua và khế chua(cắt nhỏ) vào chảo. Nêm canh vừa cho ra
tô.
3. Cháo
lươn đồng
Cắt tiết lươn đồng, cho nước sôi trụng qua, dùng tro để
chà sạch nhớt lươn. Mỗ lươn, vứt hết ruột. Rữa sạch, cho nguyên con lươn đã được
làm sạch vào luộc đến chín. Mang lươn ra xé nhỏ cho vào nồi nước luộc lươn bỏ ít gạo, cho gia vị vào nấu nhừ gạo.
Cho rau quế vào cháo, nêm vừa.
4. Mực ống
luộc
Mực ống ở Quảng Bình thuộc loại mực ngon. Mực ngư dân vừa
đi câu về, rữa sạch, cho vào nồi luộc chín tới. cho ra đĩa, cắt thành lát, cắt
ít lát gừng vào. Làm chén nước mắm thật ngon chấm với mực.
5. Bánh
bột lọc
Củ sắn rữa sạch, mang đi mài, chưng cất bột. Phơi khô bột,
cho bột vào chậu, dùng nước sôi để trộn thật đều. Nặn bột vừa phải thành hình
như tán nấm, cho nhân đã chuẩn bị trước vào(thường thì ngưới ta làm nhân tôm thịt
với măng, nấm mộc nhĩ). Lấy lá gói lại cho vào nồi nấu chín.
6. Khoai,
bắp luộc cũng là những món ngon của quê tôi. Ngoài ra còn rất nhiều
món ăn khác như cá kho các loại, gồm cá nước ngọt và cá
nước mặn.
Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014
MÙA GẶT LÀNG QUÊ
Tôi được may mắn sinh ra tại một làng quê làm nông nghiệp.
Vì vậy mùa gặt là chuyện thường đối với tôi. Vào mùa những cánh đồng biến thành
màu vàng mênh mông. Hạt lúa nặng trĩu chờ ngày thu hoạch.
Trước đây lúa được những người nông cắt rồi gom lại, bó tự
gánh về hoặc dùng xe ba gác chở về. Những ngày mùa làng quê rộn rã tiếng người
xe. Ai ai cũng háo hức hy vọng một vụ mùa bội thu. Những đoàn người mang đầy
thóc lúa về sân kho Hợp Tác Xã. Lúc này không khí lao động khẩn trương, lá cờ đỏ
sao vàng tung bay khắp cánh đồng tạo nên một bức trang huyền ảo.
Quê tôi thường làm hai vụ: hè, thu đông. Ngày xưa mô hình Hợp Tác Xã làm chấm công. Lúa được mang về sân thôn xóm. Sau đó đến khâu tuốt lúa. Những năm còn học phổ thông tôi tham gia nhiều công việc trong mùa gặt. Có nhiều bữa phải làm sáng đêm đập lúa. Khổ nhất là sau mùa lụt, bùn phủ một lớp nên khi tuốt lúa bụi bay mù mịt cả hội trường. Sáng hôm sau về nhà áo quần, người như dưới đất chui lên.
Trong mùa gặt có công đoạn phơi lúa. Nhà, sân kể cả đường
đi đều tận dụng để làm chổ phơi. Khổ nhất là vào những ngày mùa gặp mưa. Nhiều
lúc không gom kịp lúa bị ướt hư hỏng. Nhất là những cơn mưa bất chợt. Vì vậy
chúng tôi phải quan sát rất kỷ bầu trời. Có những lúc trời nhiều mây đen che
kín, chúng tôi nhanh chóng thu lúa cất vào trong nhà nhưng trời không mưa, sau
lại nắng, hoặc ngược lại.
Mùa gặt vụ hè cũng là lúc nước khô hạn. Cá trên đồng ruộng
được dồn về những vũng nước. Đây là lúc người ta bắt nhiều cá dễ dàng. Những
con cá lóc, cá rô đồng béo ngậy. Những loài cá này thường nấu với đồ chua, hoặc
kho tộ ăn không thể quên được.
Mùa gặt thu đông thường đi liền với mùa mưa lụt. Có năm lụt
lớn lúa bị ngập úng. Mùa này tôm cá nhiều. Thời tiết mát mẽ hơn. Vụ này thích hợp
với việc trồng lúa nếp.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)