Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014
ÁNH SÁNG ĐIỆN VỀ QUÊ
Khi tôi tròn 3 tuổi tôi đã nhìn thấy ánh điện. Thị xã Đồng Hới ngày ấy có đèn đường. Làng tôi nối với thị xã bỡi một con đường tráng nhựa. Cha tôi hay chở tôi đi xuống thị xã để mua sắm hay đi ăn bánh rán. Tôi nhớ có hôm tối hai cha con chở nhau xuống thị xã. Dọc đường ánh đèn sáng đẹp, lung linh. Ánh sáng đó đối với tôi lúc đó thật huyền ảo. Mười hai năm sau đó quê hương tôi không có điện. Chiến tranh đã hủy diệt thị xã thành đống đỗ nát, cảnh làng quê điêu tàn. Hơn chục năm phải sống trong cảnh tối tăm. Ban đêm chúng tôi sử dụng ánh sáng đèn Hoa Kỳ. Ngọn đèn dầu hỏa leo lét ánh sáng mờ mờ thật ảm đạm. Tuy vậy cũng không được thường xuyên sử dụng đèn này bởi lẽ làm mồi cho máy bay địch oanh tạc. Chúng tôi phải đốt đèn dưới hầm trú ẩn. Những trang sách và kiến thức cũng nhờ ánh đèn này mà chúng tôi mới lĩnh hội được. Trong những năm chiến tranh này chỉ có ánh sáng của bom đạn cùng với tiếng gầm rú của máy bay giặc Mỹ. Những chùm sáng lóe lên trên không trung thật rùng rợn, chết chóc. Cảm giác đó giờ vẫn còn trong tôi. Ánh sáng điện thời đó là một điều mơ ước của cả một dân tộc đang chìm trong chiến tranh. Một ước mơ thật xa vời không biết lúc nào thành sự thật. Mùa xuân năm 1975 đất nước hoàn toàn giãi phóng. Mãi giữa năm 1976 quê tôi được sự giúp đỡ của Liên Xô đã xây dựng nhà máy nhiệt điện Nam Lý. Những ngày đầu tiên có điện làng quê thật sáng sủa. Ánh sáng thời kỳ đó còn yếu lắm. Điện áp không ổn định. Có nhiều thời gian ánh sáng còn yếu hơn cả đèn dầu. Sau sự kiện có điện là kéo theo nhiều đồ dùng bằng điện được sử dụng như: ti vi, tủ lạnh, quạt, bàn ủi, đài radio, caxét... Làng quê như được thay áo mới, những dấu hiệu của cuộc sống hiện đại đang hình thành. Người dân thức khua hơn, các tụ điểm vui chơi giãi trí cũng được hình thành từ đó. Các đoàn nghệ thuật về quê tôi biểu diễn ngày càng nhiều hơn. Các rạp chiếu bóng, sân khấu biểu diễn ngoài trời mọc lên ngày càng nhiều. Một thời gian dài quê tôi xài bóng đèn tròn dây tóc. Ít nhà dùng bóng đèn típ, có lẽ hồi đó giá đèn loại đó mắt. Nhà ai dùng đèn típ là nhà giàu. Ánh sáng đèn típ sáng dễ chịu, từ xa có thể nhìn thấy. Hồi đó trong làng đã có nhà dùng bóng đèn màu xanh lá cây nhìn quý phái lắm. Thị xã lại có ánh sáng điện trở lại. Phố phường đông vui hơn. Cuộc sống của người dân hạnh phúc hơn. Đó là kỷ niệm của một thời mà chúng tôi đã chứng kiến: tối tăm, nghèo đói không thể nào quên được.
Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2014
ĂN BO BO
Những năm sau giãi phóng đất nước ta gặp muôn và khó khăn. Chiến tranh tàn phá mọi thứ. Sản xuất không phát triễn, các thế lực thù địch cấm vận, không thông thương được. Nền kinh tế rơi vào thế bế tắc. Tôi lúc đó đã 15 tuổi. Cái tuổi đang ăn đang lớn. Thời gian đó nhiều người bị đói. Không đủ gạo để ăn. Chúng tôi phải ăn đủ thứ kiếm được để sống qua ngày. Thức ăn chủ yếu là hạt bo bo. Tôi nhớ đó là hạt màu nâu. Nấu lâu lửa nhỏ mới chín được. Thời đó nhiên liệu để đun nấu thật khan hiếm. Nồi bo bo cho 8 người ăn chỉ đun trong vòng 20 phút. Nhà tôi đi rừng đốn được ít cũi. Quá trình nấu, đun bo bo chỉ qua loa, vì vậy khi ăn nhai thật khó khăn. Bo bo nấu xong còn cứng, nhưng đến bữa cũng phải ăn. Cứ mỗi bữa ăn nhai được 15 phút thì mõi cả mồm mà bụng vẫn còn đói. Thức ăn chỉ có nước mắm, vài thứ rau vườn, thịt cá hầu như không có, dầu rán cũng không.
Tôi nhớ chuẩn bị bữa ăn khó khăn lắm. Tôi là con cả nên phải làm mọi thứ kể cả nấu ăn. Cứ đến bữa trưa ăn vội vã rồi phải đi học. Thèm cơm lắm nhưng không có gạo để nấu ăn. Có những lúc vừa nấu ít cơm vừa phải nấu bo bo để ăn độn. Thời gian ăn bo bo kéo dài vài năm cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ 20.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)